Chiến thắng của chính nghĩa, tinh thần quốc tế cao cả, trong sáng, chí nghĩa, chí tình
Việt Nam và Campuchia là hai nước láng giềng gần gũi và có mối quan hệ truyền thống gắn bó từ lâu đời. Hai dân tộc đã đoàn kết, chia sẻ và hỗ trợ lẫn nhau trong những lúc khó khăn và hoạn nạn, cùng nhau vượt qua nhiều thăng trầm của lịch sử.
Ngay từ cuối năm 1945 khi Việt Nam vừa giành được độc lập, nhiều đơn vị quân tình nguyện Việt Nam đã sang giúp những người yêu nước, cách mạng Campuchia xây dựng “Bộ đội Ít-xa-rạ,” tiền thân của Quân đội cách mạng Campuchia và phối hợp với quân, dân Campuchia đẩy mạnh chiến tranh du kích, kháng chiến chống thực dân giành độc lập dân tộc.
Những thắng lợi của cách mạng Việt Nam đã góp phần tạo thời cơ, tăng cường thế và lực để Quân giải phóng Campuchia tiến lên, giải phóng Phnom Penh ngày 17/4/1975.
Những thắng lợi của cách mạng Việt Nam, nhất là cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân năm 1975 của quân và dân Việt Nam đã góp phần tạo thời cơ, tăng cường thế và lực để Quân giải phóng Campuchia tiến lên, giải phóng Thủ đô Phnom Penh ngày 17/4/1975, kết thúc thắng lợi cuộc kháng chiến chống thực dân và chính quyền tay sai.
Thế nhưng, ngay sau khi lên cầm quyền vào tháng 4/1975, tập đoàn Pol Pot-Ieng Sary đã lợi dụng thành quả cách mạng, phản bội lại nhân dân Campuchia. Chúng lập nên cái gọi là “nhà nước Campuchia dân chủ,” thi hành chế độ diệt chủng, thanh trừng nội bộ, giết hại hàng triệu người dân vô tội, phá hủy hàng trăm nghìn trường học, bệnh viện, chùa chiền...
Pol Pot tuyên bố: “Dù phải diệt thêm một triệu người nữa cũng kiên quyết làm, giết nhầm một kẻ vô tội còn hơn để sót một kẻ chống đối; trong gia đình, nếu một người ra rừng theo chống đối thì sẽ bị giết 3 đời.”
Tội ác “trời không dung, đất không tha” mà 4 thập kỷ sau đó, ngày 16/11/2018, Tòa án Đặc biệt Tư pháp Campuchia đã ra phán quyết lên án và nghiêm khắc trừng trị. Nhân loại sẽ không bao giờ quên, chỉ trong 3 năm 8 tháng 20 ngày, Tập đoàn Pol Pot đã sát hại hơn 3 triệu người Campuchia vô tội.
Không dừng lại ở đó, đối với Việt Nam, tập đoàn Pol Pot-Ieng Sari xuyên tạc lịch sử, khiêu khích, kích động hận thù dân tộc; chỉ trong 2 năm (1975 đến 1977), chúng đã điều động 41% quân số và trang thiết bị áp sát biên giới Việt Nam; gây ra những tội ác đẫm máu đối với nhân dân Việt Nam, xâm phạm nghiêm trọng độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam, chà đạp lên những giá trị tốt đẹp trong mối quan hệ hữu nghị giữa hai nước, hai dân tộc.
Trưa 7/1/1979, các lực lượng vũ trang cách mạng Campuchia cùng Quân tình nguyện Việt Nam tiến vào giải phóng Thủ đô Phnom Penh, lật đổ chế độ diệt chủng Pol Pot. (Ảnh: TTXVN)
Tập đoàn phản động Pol Pot đã bỏ qua lời kêu gọi, thiện chí và những nỗ lực của Việt Nam về giữ gìn hòa bình, hữu nghị, đối thoại; bỏ qua những lời kêu gọi của lực lượng tiến bộ và những người có lương tri trên thế giới.
Khi đó, mặc dù có quyền đánh trả và đủ khả năng tiêu diệt hoàn toàn quân xâm lược, nhưng Việt Nam vẫn hết sức kiềm chế, tránh một cuộc chiến tranh không mong muốn, gây tổn thất cho nhân dân hai nước và tin tưởng chắc chắn rằng với truyền thống kiên cường, bất khuất, yêu chuộng hòa bình, không chịu khuất phục trước các thế lực bạo tàn, nhân dân Campuchia nhất định sẽ vùng lên lật đổ chế độ diệt chủng.
Thực tế là nhiều cuộc nổi dậy của các lực lượng vũ trang cách mạng và nhân dân Campuchia đã diễn ra ở Quân khu Trung tâm, Đông Bắc, Quân khu 203... Tuy nhiên, do sự chênh lệch về tương quan so sánh lực lượng, cuộc đấu tranh của các lực lượng cách mạng và nhân dân Campuchia chịu nhiều tổn thất và đứng trước tình thế hiểm nguy, vô cùng khó khăn.
Trong thời khắc gian nan tột đỉnh đó, nguyên Thủ tướng Hun Sen, khi ấy là lãnh đạo Trung đoàn, cùng một số cán bộ yêu nước của Campuchia, đã sang Việt Nam bày tỏ ý nguyện của nhân dân Campuchia mong muốn nhận được sự giúp đỡ từ Việt Nam.
Ông Hun Sen sau này kể lại: “Căn cứ vào tình hình chính trị trong nước và quốc tế lúc đó, không còn con đường nào khác... Nước mà có khả năng giúp đỡ và có thể giúp đỡ chỉ có Việt Nam là duy nhất."
Mặc dù Việt Nam còn trong hoàn cảnh rất khó khăn bộn bề vì vừa ra khỏi chiến tranh, nhưng đáp lại niềm tin, nguyện vọng của nhân dân và những người cách mạng chân chính của đất nước Campuchia anh em, Đảng, Nhà nước, Quân đội và Nhân dân Việt Nam đã thể hiện tinh thần đoàn kết, chia sẻ khó khăn, làm hết sức mình, hết lòng giúp đỡ, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ cốt cán, xây dựng lực lượng cho cách mạng Campuchia; đồng thời hỗ trợ và phối hợp với lực lượng nổi dậy Campuchia đấu tranh chống lại Tập đoàn phản động Pol Pot.
Việc Việt Nam giúp đỡ nhân dân Campuchia đánh đổ chế độ diệt chủng Pol Pot, cứu dân tộc Campuchia thoát khỏi họa diệt vong là hành động phù hợp pháp lý và đạo lý, thể hiện tinh thần quốc tế cao cả, trong sáng, chí nghĩa, chí tình, sẵn sàng hy sinh cả xương máu vì mối quan hệ truyền thống gắn bó thủy chung, lâu đời giữa Đảng, Nhà nước và nhân dân hai nước; là sự tiếp nối truyền thống đoàn kết chiến đấu chống kẻ thù chung của hai dân tộc.
Quân tình nguyện Việt Nam đã kề vai, sát cánh cùng với lực lượng vũ trang cách mạng và nhân dân Campuchia tiến hành nhiều chiến dịch, nhiều trận đánh tại các tỉnh, thành phố, địa phương khác nhau và đến ngày 7/1/1979 đã hoàn toàn giải phóng Thủ đô Phnom Penh.
Đây là chiến thắng có ý nghĩa lịch sử vô cùng trọng đại, đưa Campuchia thoát khỏi chế độ diệt chủng, hồi sinh đất nước và bước vào kỷ nguyên độc lập, tự do. Nguyên Thủ tướng Hun Sen từng đánh giá: “Thắng lợi có được là do lực lượng cách mạng và nhân dân Campuchia kết hợp với sự giúp đỡ của quân tình nguyện Việt Nam."
Ngày 8/1/1979, Hội đồng Nhân dân cách mạng Campuchia được thành lập và tiếp tục đề nghị Quân tình nguyện Việt Nam phối hợp với lực lượng vũ trang Campuchia truy quét tàn quân Pol Pot và củng cố chính quyền cách mạng. Việt Nam đã cử nhiều đoàn chuyên gia trên tất cả các lĩnh vực hỗ trợ thiết thực, hiệu quả, giúp Campuchia xây dựng chính quyền cơ sở và phục hồi kinh tế-xã hội từ đống đổ nát do chế độ diệt chủng để lại.
Người dân thủ đô Phnom Penh lưu luyến tiễn đưa các chiến sỹ Quân đoàn 4-Binh đoàn Cửu Long quân tình nguyện Việt Nam hoàn thành nghĩa vụ quốc tế, lên đường trở về nước, sáng 2/5/1983. (Ảnh: TTXVN)
Qua quá trình kề vai, sát cánh chiến đấu, xây dựng đất nước Campuchia với biết bao gian khổ, hy sinh anh dũng của nhiều cán bộ, chiến sỹ quân tình nguyện và chuyên gia Việt Nam, lực lượng chính trị và lực lượng vũ trang cách mạng Campuchia ngày càng trưởng thành, lớn mạnh, đủ khả năng tự lực bảo vệ thành quả cách mạng và hồi sinh đất nước.
Trên cơ sở đó, theo thỏa thuận giữa hai Nhà nước, năm 1989, Việt Nam rút hết quân tình nguyện về nước trong niềm tự hào, vinh quang, với những tình cảm lưu luyến, thắm thiết nghĩa tình của nhân dân Campuchia anh em; hoàn thành nghĩa vụ quốc tế cao cả, vẻ vang, vô tư, trong sáng, hiếm có trong lịch sử quan hệ quốc tế.
Người dân Campuchia đã trìu mến gọi những chiến sỹ quân tình nguyện Việt Nam là “Bộ đội nhà Phật.”
Ngày quân tình nguyện Việt Nam về nước, báo Pracheachon (Nhân dân) của Campuchia ngày 29/6/1989 ra xã luận viết: “Trong những năm cực kỳ bi thảm dưới chế độ diệt chủng Pol Pot, trên thế giới này, có không biết bao nhiêu kẻ mạnh, kẻ giàu nhưng duy nhất chỉ có người bạn láng giềng nghèo Việt Nam đến cứu sống dân tộc ta mà thôi.” Ông Hun Sen cũng đã khẳng định: “Không có sự giúp đỡ của Việt Nam thì Campuchia không có ngày nay, dứt khoát là thế.”
Tiếp tục đưa quan hệ Việt Nam-Campuchia ngày càng đi vào chiều sâu, thực chất, hiệu quả
Ngày nay, mối quan hệ hữu nghị giữa Việt Nam và Campuchia tiếp tục được tiếp thêm sức mạnh từ những truyền thống vốn có từ lâu đời trong lịch sử. Quan hệ Việt Nam-Campuchia đã, đang được củng cố và phát triển vững chắc theo phương châm "láng giềng tốt đẹp, hữu nghị truyền thống, hợp tác toàn diện, bền vững lâu dài."
Trong những năm qua, quan hệ Việt Nam-Campuchia đã không ngừng được củng cố và phát triển trên mọi lĩnh vực, mang lại lợi ích thiết thực cho nhân dân hai nước, đóng góp tích cực vào hòa bình, ổn định, hợp tác trong khu vực và trên thế giới.
Quan hệ chính trị giữa hai nước tiếp tục phát triển tốt đẹp, lãnh đạo cấp cao hai nước duy trì các chuyến thăm tiếp xúc và trao đổi dưới nhiều hình thức, kể cả khi dịch đại COVID-19 diễn biến phức tạp.
Trong những năm qua, quan hệ Việt Nam-Campuchia đã không ngừng được củng cố và phát triển trên mọi lĩnh vực, mang lại lợi ích thiết thực cho nhân dân hai nước, đóng góp tích cực vào hòa bình, ổn định, hợp tác trong khu vực và trên thế giới.
Hợp tác giữa các bộ, ngành, địa phương với các cơ chế hợp tác thiết thực được triển khai ngày càng hiệu quả, đưa quan hệ hợp tác trên các lĩnh vực ngày càng đi vào chiều sâu.
Các hoạt động của Mặt trận, nhóm nghị sỹ hữu nghị, hội hữu nghị, các tổ chức đoàn thể quần chúng hai nước, nhất là tại các tỉnh biên giới diễn ra sôi nổi và rộng khắp, góp phần nâng cao sự hiểu biết của nhân dân, nhất là thế hệ trẻ về truyền thống, đoàn kết, hữu nghị, hợp tác và giúp đỡ lẫn nhau giữa hai nước, hai dân tộc.
Hợp tác trong lĩnh vực kinh tế, thương mại và đầu tư giữa hai nước nói chung và giữa các tỉnh biên giới nói riêng đạt được kết quả tích cực.
Năm 2022, kim ngạch thương mại hai nước vẫn tăng trưởng mạnh mẽ, đạt 10,57 tỷ USD, tăng gần 11% so với cùng kỳ năm 2021; trong 11 tháng năm 2023 đạt gần 8 tỷ USD (dự kiến cả năm 2023 đạt 9 tỷ USD).
Hai bên nhất trí phấn đấu đạt mốc kim ngạch thương mại song phương 20 tỷ USD trong thời gian tới. Việt Nam hiện là đối tác thương mại lớn thứ ba của Campuchia (sau Trung Quốc và Mỹ) và là đối tác thương mại lớn nhất của Campuchia trong ASEAN. Đến nay, Việt Nam có 205 dự án đầu tư còn hiệu lực ở Campuchia với tổng vốn đăng ký đạt 2,94 tỷ USD, đứng đầu ASEAN và là một trong 5 nước có đầu tư trực tiếp lớn nhất tại Campuchia. Đặc biệt, Campuchia đứng thứ 2 trong số 79 quốc gia, vùng lãnh thổ mà Việt Nam có đầu tư ra nước ngoài.
Hợp tác giữa hai nước trên lĩnh vực quốc phòng, an ninh không ngừng được tăng cường, ngày càng thực chất hiệu quả, là một trong những trụ cột quan trọng trong quan hệ hai nước.
Hai bên đã ký 2 văn kiện pháp lý ghi nhận thành quả phân giới cắm mốc khoảng 84% đường biên giới trên đất liền Việt Nam-Campuchia và hiện nay đang nỗ lực đàm phán, giải quyết 16% còn lại để tiếp tục xây dựng đường biên giới hòa bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển bền vững.
Các lĩnh vực hợp tác khác về giáo dục, đào tạo, giao thông vận tải, văn hóa, y tế, viễn thông… luôn được quan tâm đẩy mạnh.
Lễ khánh thành Đài Hữu nghị Việt Nam-Campuchia tại tỉnh Kampong Cham, ngày 28/1/2020. (Ảnh: TTXVN phát)
Bên cạnh đó, hai nước cũng phối hợp chặt chẽ tại các diễn đàn quốc tế, khu vực và tiểu vùng, góp phần nâng cao vị trí, uy tín của mỗi nước trong khu vực và trên thế giới.
Nhìn lại chặng đường đã qua, chúng ta tự hào và vui mừng nhận thấy “quan hệ láng giềng tốt đẹp, hữu nghị truyền thống, hợp tác toàn diện, bền vững lâu dài” giữa Việt Nam và Campuchia luôn được các thế hệ lãnh đạo và nhân dân hai nước dày công vun đắp đang tiếp tục không ngừng được củng cố và phát triển tốt đẹp, mang lại lợi ích thiết thực cho nhân dân hai nước.
Trong thời gian tới, dù bối cảnh tình hình thế giới và khu vực có nhiều biến diễn biến nhanh chóng, phức tạp, khó lường nhưng hai nước, hai dân tộc Việt Nam-Campuchia sẽ cùng nhau đấu tranh với chủ nghĩa dân tộc hẹp hòi, chống lại sự bôi nhọ, vu khống, kích động, gây chia rẽ để không ngừng tăng cường hơn nữa mối quan hệ “láng giềng tốt đẹp, hữu nghị truyền thống, hợp tác toàn diện, bền vững lâu dài” vì lợi ích của nhân dân hai nước, vì hòa bình, ổn định, phát triển trong khu vực và trên toàn thế giới./.
TTXVN