Các tàu cảnh sát biển Trung Quốc hoạt động gần giàn khoan trái phép Hải Dương 981 ở vùng biển Việt Nam. Ảnh: Reuters |
Ông Nguyễn Xuân Thủy hôm 27/5 đăng bài trong mục Ý kiến của tờ nhật báo hàng đầu Indonesia Jakarta Post. Trong đó, ông vạch trần những luận điệu xuyên tạc về vấn đề chủ quyền ở Biển Đông của ông Liu Hongyang, thường vụ viên Đại sứ quán Trung Quốc tại Indonesia. Dưới đây là bài viết của ông Nguyễn Xuân Thủy trên Jakarta Post.
"Trong bài viết 'Những hành động nguy hiểm của Việt Nam', ông Liu Hongyang, thường vụ viên của Đại sứ quán Trung Quốc tại Indonesia, đề cập đến quần đảo Hoàng Sa là "lãnh thổ cố hữu của Trung Quốc". Cộng đồng quốc tế đã công nhận điều này từ Thế chiến I, trong khi cố thủ tướng Việt Nam công khai công nhận quần đảo này và những quần đảo khác là lãnh thổ của Trung Quốc vào ngày 14/9/1958.
Tôi cảm thấy mình có trách nhiệm phải đưa ra những luận điểm sau để bác bỏ những thông tin sai lầm trên.
Thứ nhất, Việt Nam có đầy đủ bằng chứng lịch sử và cơ sở pháp lý để khẳng định chủ quyền đối với quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Các tài liệu lịch sử chính thức đều cho thấy rõ ràng rằng Việt Nam đã thực thi chủ quyền một cách hòa bình và liên tục với quần đảo Trường Sa và Hoàng Sa từ ít nhất là thế kỷ 17, khi những lãnh thổ này vẫn còn được xem là vô chủ. Một minh chứng rõ ràng cho thấy các hoàng đế Việt Nam đã củng cố chủ quyền với các lãnh thổ trên là việc vua Minh Mạng cho xây dựng một ngôi chùa vào năm 1835 và đặt một tượng đá trên quần đảo Hoàng Sa.
Về phần mình, Trung Quốc cho thấy họ không có ý định tuyên bố chủ quyền với Hoàng Sa và Trường Sa. Trái lại, nhiều bản đồ mô tả lãnh thổ của Trung Quốc dưới triều đại Nhà Thanh đều xem đảo Hải Nam là cực nam của Trung Quốc. Một trong những bản đồ này gần đây đã được Thủ tướng Angela Merkel tặng cho Chủ tịch Tập Cận Bình làm quà khi ông sang thăm Đức hồi tháng ba.
Khi Pháp thiết lập sự bảo hộ đối với Việt Nam năm 1884, Pháp đã nhân danh Việt Nam đảm nhận quyền quản lý quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.
Bên cạnh đó, chủ quyền của Việt Nam với hai quần đảo này đã được công nhận trong Hội nghị Hòa bình San Francisco diễn ra vào tháng 9/1951 với sự tham dự của lãnh đạo 51 quốc gia, nhằm giải quyết vấn đề lãnh thổ hậu Thế chiến II.
Tại hội nghị này, người đứng đầu đoàn đại biểu Việt Nam Trần Văn Hữu, thủ tướng dưới chính quyền của vua Bảo Đại, đã khẳng định chủ quyền của Hoàng Sa và Trường Sa mà không gặp phải sự phản đối nào từ 50 đoàn đại biểu tham dự.
Có một điều thú vị cần nhấn mạnh tại hội nghị San Francisco này là đề xuất sửa đổi cho Hiệp ước Hòa bình San Francisco, trong đó công nhận chủ quyền của Trung Quốc với Hoàng Sa và Trường Sa, đã bị 46/51 quốc gia tham dự bác bỏ.
Ngoài ra, những bên tham gia vào Hội nghị Geneva năm 1954 về khôi phục hòa bình ở Đông Dương, mà Trung Quốc cũng là một trong số này, đã xác nhận và tôn trọng sự độc lập và chủ quyền lãnh thổ của Việt Nam. Là một nước tham gia vào hội nghị, Pháp tuân thủ Hiệp ước San Francisco và rút lực lượng ra khỏi Việt Nam năm 1956. Việt Nam Cộng hòa sau đó đã tiếp quản hai quần đảo trên, có nhiều hành động và đưa ra nhiều tuyên bố để khẳng định chủ quyền với các quần đảo.
Không thể bác bỏ sự thật rằng năm 1974, Trung Quốc đã sử dụng vũ lực để chiếm quần đảo Hoàng Sa. Hành vi xâm lược này vi phạm tiêu chuẩn tối thiểu của luật quốc tế về cấm sử dụng vũ lực trong quan hệ quốc tế theo Điều 2 khoản 4 của Hiến chương Liên Hợp Quốc.
Xuất phát từ sự vi phạm nghiêm trọng luật pháp quốc tế, việc chiếm giữ quần đảo Hoàng Sa hiện nay của Trung Quốc là vô giá trị, bất chấp người Trung Quốc đã ở đó bao nhiêu lâu và họ dùng những biện pháp gì để thực thi sự quản lý của mình.
Bản thân Trung Quốc đã thông qua nguyên tắc này trong một bản ghi nhớ vào ngày 12/5/1988 khi Bộ Ngoại giao Trung Quốc tuyên bố rằng sự xâm lược sẽ không bao giờ tạo ra chủ quyền. Từ góc độ pháp lý và lịch sử, tuyên bố chủ quyền của Trung Quốc với quần đảo Hoàng Sa là vô căn cứ. Do đó, lập trường của ông Liu rằng quần đảo Hoàng Sa thuộc Trung Quốc là sai.
Thứ hai, ông Liu đã cố tình trích dẫn sai công thư ngày 14/9/1958 của cố thủ tướng Phạm Văn Đồng như một sự công nhận chủ quyền của Trung Quốc với quần đảo Hoàng Sa.
Trong công thư, cố thủ tướng không hề đề cập đến đến vấn đề lãnh thổ và không đề cập đến hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Ông chỉ ghi nhận và tán thành tuyên bố về vùng lãnh hải 12 hải lý của Trung Quốc mà thôi. Bên cạnh đó, việc công thư không đề cập đến hai quần đảo cũng phù hợp với thực tế lúc đó: hai quần đảo nằm dưới quyền quản lý của Việt Nam Cộng hòa từ năm 1956 như đã đề cập ở trên.
Trung Quốc, một nước tham gia Hiệp định Geneva, chắc chắn biết rõ thực tế rằng phạm vi địa lý hành chính của Việt Nam được chia cắt tại vĩ tuyến 17, như đã nêu trong Hiệp định Geneve 1954 về Việt Nam.
Hơn nữa, những phát ngôn của Trung Quốc rằng không có tranh chấp ở Hoàng Sa là trái với những gì mà các lãnh đạo nước này đã công nhận. Ví dụ, vào tháng 9/1975, phó thủ tướng Trung Quốc khi đó là Đặng Tiểu Bình đã nói với bí thư thứ nhất đảng Lao động Việt Nam Lê Duẩn rằng hai bên có quan điểm khác nhau về Hoàng Sa và Trường Sa và vấn đề cần được giải quyết thông qua đàm phán. Tuyên bố này đã được ghi lại trong bản ghi nhớ của Bộ Ngoại giao Trung Quốc ngày 12/5/1988.
Tuy nhiên, có một điểm mà ông Liu nói đúng, đó là "chúng ta không nên chỉ nghe từ một phía của câu chuyện". Tôi coi bài viết này là lời mời các độc giả đến với phía của tôi trong câu chuyện này."