Cựu chiến binh hải quân Tom Wilber và cha ông Gene Wilber ngay trước khi tham gia cuộc diễu hành Ngày Tưởng niệm năm 2015.
Trung tá phi công Hải quân Mỹ Eugene Wilber (Gene Wilber) là cựu tù binh tại Nhà tù Hỏa Lò (Việt Nam). Trong suốt thời gian gần 5 năm bị tạm giam tại Hỏa Lò (1968 - 1973), Walter đã nhận được sự đối xử nhân đạo, khoan dung từ những cán bộ, chiến sỹ quản lý trại giam. Từ đó, ông đã thay đổi nhận thức về cuộc chiến của Mỹ ở Việt Nam. Là người có lương tri, ông có cảm tình với các quản giáo tại Nhà tù Hoả Lò, với đất nước, con người Việt Nam và có những hành động tích cực nhằm ủng hộ cuộc đấu tranh vì độc lập thống nhất của Việt Nam, đồng thời kêu gọi sớm chấm dứt cuộc chiến phi nghĩa mà quân đội Mỹ thực hiện.
Ngày 12/2/1973, Walter Eugence Wilber đã được Chính phủ Việt Nam trao trả cho Chính phủ Hoa Kỳ, theo tinh thần của Hiệp định Paris. Trở về Mỹ nhưng tình cảm yêu mến ông dành cho Việt Nam không mất đi mà còn ngày càng phát triển. Tình cảm đó đã được ông truyền lại cho con trai của mình là Thomas Wilber (Tom Wilber).
Mảnh còn lại từ chiếc máy bay chiến đấu phản lực bị bắn rơi của phi công Hải quân Gene Wilber đã được biến thành lọ hoa trong tang lễ của ông.
Nhân Ngày Memorial Day - ngày lễ này tưởng niệm những quân nhân Hoa Kỳ đã tử nạn trong quân ngũ, ông Tom Wilber đã có bài viết về người cha của mình với nhan đề "Cha tôi, Tù binh, người phản chiến, yêu nước" đăng trên Tạp chí USA Today (Nước Mỹ Ngày nay) và nhấn mạnh: “Đây là những gì cha tôi sẽ nói với các binh sĩ quân đội ngày hôm nay”. Bài viết đã để lại tiếng vang trong phong trào hòa bình, phản chiến và những người bạn ủng hộ Việt Nam.
Xin giới thiệu tới bạn đọc bài viết của Tom Wilber để hiểu thêm về các chiến binh Mỹ khi họ được tự do nói về chiến tranh ở Việt Nam.
Sáu năm trước (2015), vào Ngày tưởng niệm, tôi đã giúp cha ráp nhiều mảnh của bộ đồng phục màu trắng trong lễ phục của ông ấy. Ban tổ chức ở địa phương đã yêu cầu cả hai chúng tôi, quân nhân nghỉ hưu, đứng trên một chiếc phà trong cuộc diễu hành ở quê hương của chúng tôi. Tại sao lại là chúng tôi? Chúng tôi đại diện cho hai thế hệ kế tiếp của sự nghiệp hải quân. Trước khi lên đường tham gia cuộc diễu hành, cha và tôi đã đứng cạnh nhau để chụp ảnh với những thứ mà chúng tôi mang theo.
Tôi cầm mảnh còn lại của chiếc máy bay F-4J của cha mà tôi đã thu thập được hai tuần trước đó, tại một ngôi làng ở tỉnh Nghệ An (Việt Nam), nơi chiếc máy bay chiến đấu đang bốc cháy của cha bị rơi năm 1968. Mảnh động cơ đã được tái sử dụng hàng chục năm làm chậu đựng hoa ngày tết trong một gia đình ở Việt Nam.
Cha tôi - Gene Wilber - đã bật ra khỏi máy bay hai giây trước khi nó lao xuống một cánh đồng trống. Đáng buồn thay, người ngồi sau lưng cha tôi - Bernie - người chồng và người cha đã không thể thoát khỏi cú va chạm và qua đời vào đúng Ngày của Cha năm 1968 khi mới 24 tuổi. Bốn mươi bảy năm sau, cha tôi đã đón một lọ đất nhỏ mà tôi thu thập được từ địa điểm tai nạn - nơi an nghỉ cuối cùng của người đồng đội của ông. Chúng tôi đã mang những kỷ niệm này trong cuộc diễu hành vào năm 2015.
Đó là Ngày Tưởng niệm cuối cùng của cha. Ba tuần sau, cha được chẩn đoán mắc bệnh ung thư não giai đoạn bốn. Hai tuần sau, cha mất. Mảnh động cơ phản lực một lần nữa được biến thành lọ hoa, lần này được trưng bày trong đám tang của ông.
Đứng thẳng trong những ngày cuối đời là điều khó khăn đối với cha, nhưng ông đã luôn nổi bật, ngay cả khi là một tù nhân chiến tranh. Là một sĩ quan chỉ huy phi đội máy bay chiến đấu và phi công dày dặn kinh nghiệm, ông từng nghĩ rằng mình sẽ chiến đấu vì hòa bình ở Việt Nam. Nhưng ông đã cảm thấy lờ mờ có những điều đáng nghi ngay cả trước khi ông bị bắn hạ. Trong nhà tù Hỏa Lò, Hà Nội, 20 tháng đầu tiên cô độc đã dành cho cha tôi thời gian để suy nghĩ thấu đáo. Ông kết luận rằng cuộc chiến là bất hợp pháp và sai lầm, và ông tin tưởng điều đó trong suốt phần đời còn lại của mình.
Hầu hết những tù binh khác phản đối chiến tranh đều cảm thấy họ phải dập tắt niềm tin như vậy của mình, lo lắng rằng nếu họ nói bất cứ điều gì họ sẽ làm tổn hại đến sự nghiệp của họ, hoặc tệ hơn, sẽ bị bỏ tù khi trở về. Nhưng cha tôi đã phản đối chiến tranh, trong và sau khi bị giam cầm. Đối với ông, lương tâm là điều tối quan trọng. Cuộc chiến đã sai. Nếu ông không nói ra, im lặng sẽ là một sự phản bội với chính mình.
Gene Wilber trên tàu USS America chuẩn bị cho chuyến bay vào tháng 5/1968, một tháng trước khi máy bay của ông bị bắn rơi.
Để trả lời những người chỉ trích chiến tranh, câu chuyện mới đã giúp dễ dàng hơn trong suốt nhiều thập kỷ kể từ sau cuộc chiến khi đổ lỗi cho thất bại của Mỹ trước một thế lực kém hơn cho các tù binh bất đồng chính kiến và phong trào phản chiến rộng lớn hơn. Vào thời điểm Chiến dịch Homecoming (tạm dịch: Chiến dịch Hồi Hương) triển khai, hàng trăm nghìn người Mỹ đã diễu hành trên đường phố, trong đó có hàng chục nghìn lính GI đang tại ngũ và cựu chiến binh.
Nếu Cha tôi truyền tải một thông điệp tới các quân nhân và gia đình của họ vào Ngày Tưởng niệm hôm nay, thì đó sẽ là gì? Cha tôi không chống quân đội. Ông thấy cần có quân đội để phòng thủ. Ông tình nguyện vào Hải quân. Ông đã bay hơn 200 chuyến để thực hiện nhiệm vụ chiến đấu ở Hàn Quốc và Việt Nam.
Nếu Cha tôi ở đây hôm nay, ông có thể sẽ nói với các binh sĩ thế này: Hãy ủng hộ và bảo vệ Hiến pháp, vì đó là công việc của bạn. Hãy nhớ rằng đó là lòng trung thành chân chính nhất của bạn. Nhưng có thể bạn phải vượt ra ngoài tầm kiểm soát trực tiếp, vượt ra ngoài chuỗi chỉ huy, thậm chí vượt ra ngoài thể chế. Hãy trung thành với nguyên tắc mà đất nước chúng ta được thành lập. Hãy giữ cho lương tâm trong sáng.
NN t/h theo Tạp chí Thời đại