1- Quan niệm về thế giới
Đây là thành tựu quan trọng nhất và có ý nghĩa mở đường cho quá trình đổi mới tư duy đối ngoại của Đảng ta, với bước chuyển từ quan niệm thế giới là “đấu trường” đấu tranh giai cấp, sang quan niệm thế giới là không gian trong đó các nước có chế độ chính trị khác nhau, hợp tác và đấu tranh trong cùng tồn tại hòa bình; nghĩa là chuyển cách nhìn thế giới từ lăng kính giai cấp và đấu tranh giai cấp sang nhìn thế giới qua lăng kính quốc gia - dân tộc, hợp tác rồi đến đấu tranh và cùng tồn tại hòa bình. Từ sự phát triển tư duy lý luận này của Đảng, cơ hội hợp tác với các nước phía bên kia “hàng rào sắt” đã được mở rộng, để chúng ta tự tin vươn ra phần còn lại của thế giới. Cũng từ sự phát triển tư duy lý luận này và tiếp đó là những chuyến đi nghiên cứu thực tế tại các nước Đông Nam Á, Đảng ta nhận thấy Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN) không phải là Tổ chức Hiệp ước Đông Nam Á (SEATO) “trá hình”, mà là một tập hợp mới, trong đó các nước thành viên hợp tác với nhau để cùng đối phó với các nước lớn ngoài khu vực(1).
Báo cáo chính trị Đại hội VI (năm 1986) của Đảng đánh giá thế giới vẫn là hai phe (xã hội chủ nghĩa, tư bản chủ nghĩa), ba phong trào (phong trào xã hội chủ nghĩa, phong trào độc lập dân tộc và phong trào công nhân ở các nước tư bản chủ nghĩa), bốn mâu thuẫn cơ bản của thời đại(2). Trước sự chuyển biến nhanh chóng của tình hình thế giới, tháng 5-1988, trong Nghị quyết số 13-NQ/TW, của Bộ Chính trị khóa VI, quan điểm trên bắt đầu có những thay đổi. Văn kiện các kỳ Đại hội VII (năm 1991), Đại hội VIII (năm 1996) và Đại hội XI (năm 2011) của Đảng vẫn đề cập đến mâu thuẫn cơ bản của thời đại, nhưng chỉ đề cập khi bàn tới các tính chất của thời đại. Đại hội VIII của Đảng xem “Các nước có chế độ chính trị xã hội khác nhau vừa hợp tác vừa đấu tranh cùng tồn tại hòa bình”(3) là một trong những xu thế chủ yếu trong quan hệ quốc tế. Báo cáo chính trị Đại hội XI của Đảng nhấn mạnh: “Các mâu thuẫn cơ bản trên thế giới biểu hiện dưới những hình thức và mức độ khác nhau vẫn tồn tại và phát triển”(4). Quan trọng hơn, các mâu thuẫn cơ bản của thời đại dần được nhận diện từ góc độ mâu thuẫn trong quá trình phát triển hơn là mâu thuẫn sớm dẫn đến “cách mạng” lật đổ chủ nghĩa tư bản.
2- Quan niệm về các xu thế lớn trên thế giới
Từ chỗ tập trung vào việc nhận định các xu thế chính trị (hai phe, các phong trào...), xu thế chiến tranh, xu thế hòa bình, Đảng ta dần mở rộng nhận định về các xu thế chung, nhất là xu thế toàn cầu hóa. Báo cáo chính trị Đại hội VIII của Đảng nhận định về xu thế hòa bình, ổn định; xu thế hợp tác và liên kết khu vực, liên kết quốc tế về kinh tế, thương mại; xu thế độc lập dân tộc, chống can thiệp của nước ngoài,... và khẳng định: “Các đặc điểm và xu thế nêu trên đã làm nảy sinh tính đa phương, đa dạng trong quan hệ quốc tế và trong chính sách đối ngoại của các nước”(5).
Về xu thế toàn cầu hóa, Đại hội IX (năm 2001) của Đảng lần đầu tiên đề cập, trong đó khẳng định: “Toàn cầu hóa kinh tế là một xu thế khách quan, lôi cuốn ngày càng nhiều nước tham gia; xu thế này đang bị một số nước phát triển và các tập đoàn kinh tế tư bản xuyên quốc gia chi phối, chứa đựng nhiều mâu thuẫn, vừa có mặt tích cực vừa có mặt tiêu cực, vừa có hợp tác vừa có đấu tranh”(6). Trong Báo cáo chính trị Đại hội X (năm 2006) của Đảng, khái niệm toàn cầu hóa được nêu một lần và vẫn chỉ nhìn dưới góc độ kinh tế: “Toàn cầu hóa kinh tế tạo ra cơ hội phát triển nhưng cũng chứa đựng nhiều yếu tố bất bình đẳng, gây khó khăn, thách thức lớn cho các quốc gia, nhất là các nước đang phát triển”(7). Từ Đại hội XI của Đảng, toàn cầu hóa được nhìn nhận đầy đủ, khách quan, không mang màu ý thức hệ: “Toàn cầu hóa và cách mạng khoa học - công nghệ phát triển mạnh mẽ, thúc đẩy quá trình hình thành xã hội thông tin và kinh tế tri thức”(8).
Sự phát triển lý luận về các xu thế lớn trên thế giới và trong quan hệ quốc tế đã mở đường cho quá trình hội nhập quốc tế của nước ta. Nhận diện các xu thế lớn, định ra chủ trương, chính sách để đưa đất nước hòa vào các xu thế lớn, tranh thủ tối đa mặt tích cực và giảm thiểu mặt tiêu cực là một trong những nhân tố quan trọng góp phần làm nên thành tựu về đối ngoại của nước ta kể từ khi tiến hành công cuộc đổi mới.
Ủy viên Bộ Chính trị, Chủ tịch nước Võ Văn Thưởng gặp gỡ các đại sứ Việt Nam tại khu vực châu Âu _Ảnh: TTXVN
3- Quan niệm về đối tác
Từ chỗ nhìn đối tác dưới góc độ một thực thể, phân chia đối tác một cách đơn giản “trắng” hoặc “đen”, đến Nghị quyết Trung ương 8, ngày 12-7-2003, của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa IX, “Về Chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới”, quan niệm về đối tác đã được làm rõ: “Những ai tôn trọng độc lập, chủ quyền, thiết lập và mở rộng quan hệ hữu nghị, hợp tác bình đẳng, cùng có lợi với Việt Nam đều là đối tác; bất kỳ thế lực nào có âm mưu và hành động chống phá mục tiêu của nước ta trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, đều là đối tượng của chúng ta. Mặt khác, trong tình hình diễn biến nhanh chóng và phức tạp hiện nay, cần có cách nhìn biện chứng: Trong mỗi đối tượng vẫn có thể có mặt cần tranh thủ, hợp tác; trong mỗi đối tác có thể có mặt mâu thuẫn với lợi ích của ta cần phải đấu tranh”(9). Theo nguyên tắc đó, Đảng ta xác định “đối tác”, “đối tượng” từ hai góc nhìn. Thứ nhất, nhìn “đối tác”, “đối tượng” như một thực thể “trọn gói”. Góc nhìn này có thế mạnh là dễ phân biệt. Thực thể nào có chính sách và hành động phù hợp với lợi ích quốc gia - dân tộc của Việt Nam thì ta ứng xử với họ như “đối tác” hợp tác. Thực thể nào làm tổn hại đến lợi ích quốc gia - dân tộc của Việt Nam thì họ là “đối tượng” đấu tranh. Thứ hai, nhìn “đối tác”, “đối tượng” qua hành vi của họ trong các vấn đề, hoàn cảnh cụ thể khi quan hệ với ta. Nghị quyết nhấn mạnh, “trong tình hình diễn biến nhanh chóng và phức tạp hiện nay, cần có cách nhìn biện chứng: Trong mỗi đối tượng vẫn có thể có mặt cần tranh thủ, hợp tác; trong mỗi đối tác có thể có mặt mâu thuẫn với lợi ích của ta cần phải đấu tranh”. Đây là cách nhìn phù hợp với tất cả thực thể có chính sách và hành động khác nhau, tùy theo vấn đề cụ thể, hoàn cảnh cụ thể trong quan hệ với nước ta. Hai mươi năm qua, cách nhìn này đã mở đường cho quá trình hoạch định và triển khai chính sách đối ngoại của nước ta với các đối tác, nhất là các đối tác lớn, các đối tác có những vấn đề khác biệt với lợi ích quốc gia - dân tộc của nước ta.
4- Quan niệm về mục tiêu đối ngoại
Trước Đại hội XI của Đảng, mục tiêu đối ngoại của Đảng ta chưa được đề cập riêng mà hàm chứa trong phần nhiệm vụ đối ngoại. Báo cáo chính trị Đại hội VI của Đảng nhấn mạnh: “Trong những năm tới, nhiệm vụ của Đảng và Nhà nước ta trên lĩnh vực đối ngoại là ra sức kết hợp sức mạnh của dân tộc với sức mạnh của thời đại, phấn đấu giữ vững hòa bình ở Đông Dương, góp phần tích cực giữ vững hòa bình ở Đông Nam Á và trên thế giới, tăng cường quan hệ đặc biệt giữa ba nước Đông Dương, tăng cường quan hệ hữu nghị và hợp tác toàn diện với Liên Xô và các nước trong cộng đồng xã hội chủ nghĩa, tranh thủ điều kiện quốc tế thuận lợi cho sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc, đồng thời tích cực góp phần vào cuộc đấu tranh chung của nhân dân thế giới vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và chủ nghĩa xã hội”(10). Có thể thấy, mục tiêu của các nhiệm vụ này là gìn giữ hòa bình (ở Đông Dương, Đông Nam Á và trên thế giới), tranh thủ các điều kiện quốc tế thuận lợi cho sự nghiệp phát triển và bảo vệ Tổ quốc, góp phần vào công cuộc đấu tranh chung của nhân dân thế giới (nâng cao vị thế đất nước). Văn kiện Đại hội IX của Đảng đề cập nhiệm vụ bảo vệ “độc lập và chủ quyền quốc gia” (mục tiêu an ninh).
Văn kiện Đại hội XI của Đảng lần đầu tiên nêu mục tiêu đối ngoại “vì lợi ích quốc gia, dân tộc” khi nhấn mạnh: “Thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hợp tác và phát triển; đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ, chủ động và tích cực hội nhập quốc tế; nâng cao vị thế của đất nước; vì lợi ích quốc gia, dân tộc, vì một nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa giàu mạnh; là bạn, đối tác tin cậy và thành viên có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế(11). Các nội dung về nhiệm vụ đối ngoại cho thấy, quan niệm của Đảng ta về nội hàm của lợi ích quốc gia - dân tộc, bao gồm: 1- Các lợi ích an ninh (an ninh lãnh thổ, an ninh chính trị, an ninh kinh tế, an ninh con người...); 2- Các lợi ích phát triển (môi trường thuận lợi cho phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội...); 3- Nâng cao vị thế và vai trò của Việt Nam ở khu vực và thế giới. Trong Báo cáo chính trị Đại hội XII và Đại hội XIII của Đảng, mục tiêu đối ngoại vì lợi ích quốc gia - dân tộc tiếp tục được khẳng định và xác định rõ tầm quan trọng: “Bảo đảm cao nhất lợi ích quốc gia - dân tộc trên cơ sở các nguyên tắc cơ bản của Hiến chương Liên hợp quốc và luật pháp quốc tế, bình đẳng, hợp tác, cùng có lợi”(12).
5- Quan niệm về nguyên tắc đối ngoại
Khi lợi ích quốc gia - dân tộc được xác định là mục tiêu đối ngoại thì nguyên tắc cao nhất của đối ngoại cũng là vì lợi ích quốc gia - dân tộc. Tuy nhiên, trước khi mục tiêu đối ngoại “vì lợi ích quốc gia - dân tộc” được nêu rõ trong Văn kiện Đại hội XI, lợi ích quốc gia - dân tộc đã được coi là nguyên tắc đối ngoại của Đảng ta. Năm 1964, tại Hội nghị Ngoại giao lần thứ ba, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã căn dặn: “Làm gì cũng vì lợi ích dân tộc mà làm”(13). Đối với Người, lợi ích quốc gia - dân tộc là tư tưởng xuyên suốt trong suốt cuộc đời hoạt động cách mạng. Đại hội XII (năm 2016) của Đảng tiến thêm một bước, nêu rõ nguyên tắc thứ hai trong đối ngoại, đó là phù hợp với các nguyên tắc cơ bản của luật pháp quốc tế. Đại hội nhấn mạnh: “Bảo đảm lợi ích tối cao của quốc gia - dân tộc, trên cơ sở các nguyên tắc cơ bản của luật pháp quốc tế”(14). Trước đó, trong hoạch định và triển khai chính sách, cả đối nội và đối ngoại, thực hiện nghiêm chỉnh các cam kết quốc tế đã được coi là một trong những nguyên tắc đối ngoại của Việt Nam.
Như vậy, từ Đại hội XII của Đảng, hai nguyên tắc hoạch định và triển khai đường lối, chính sách đối ngoại của Đảng ta đã được làm rõ trong Văn kiện Đảng. Đó là: 1- Vì lợi ích quốc gia - dân tộc; 2- Phù hợp với các nguyên tắc cơ bản của luật pháp quốc tế. Bên cạnh hai nguyên tắc này, từ năm 2009, nguyên tắc “bốn không”(15) trở thành nguyên tắc trong đối ngoại nói chung và đối ngoại quốc phòng - an ninh nói riêng của Việt Nam. Việc chỉ rõ nguyên tắc này có ý nghĩa quan trọng trong thực hiện minh bạch hóa chính sách đối ngoại, tăng cường lòng tin, giảm thiểu sự nghi ngờ từ các đối tác.
6- Xác định ưu tiên
Khi mục tiêu hàng đầu trong đối ngoại của Đảng ta là bảo đảm lợi ích tối cao của quốc gia - dân tộc, thì thứ tự ưu tiên trong đối ngoại cũng dần được xác định lại theo mức độ mà chúng ta cần quan tâm trong bảo đảm lợi ích quốc gia - dân tộc. Do đó, từ thứ tự ưu tiên xếp theo ý thức hệ (các nước xã hội chủ nghĩa, các nước bạn bè truyền thống, các nước thành viên phong trào Không liên kết...) chuyển sang ưu tiên các nước láng giềng, các nước lớn, các nước khác (trong đó có các nước bạn bè truyền thống). Định hướng đối ngoại của Đảng cũng đề cập quan hệ với các đảng cầm quyền, đảng tham chính và nêu rõ, nguyên tắc trong đối ngoại đảng là “vì lợi ích quốc gia - dân tộc”. Nghị quyết Trung ương 8, ngày 12-7-2003, của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa IX, “Về Chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới”; tiếp đó là Nghị quyết Trung ương 8, ngày 28-3-2013, của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI, “Về Chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới”, xác định rõ hơn thứ tự ưu tiên trong đối ngoại từ góc độ bảo vệ an ninh quốc gia. Theo đó, thứ tự ưu tiên các nước láng giềng, các đối tác lớn, đối tác quan trọng được cụ thể hóa hơn với Lào, Cam-pu-chia, Trung Quốc, ASEAN, Mỹ...
7- Xác định các nội hàm quan trọng nhất của đường lối, chính sách đối ngoại thời kỳ đổi mới
Bắt đầu từ Đại hội VI của Đảng, các nội hàm quan trọng nhất, như độc lập, tự chủ; đa dạng hóa, đa phương hóa; hội nhập quốc tế, dần được làm rõ và phát triển. Độc lập, tự chủ; đa dạng hóa, đa phương hóa được xác định từ sớm; hội nhập quốc tế từng bước được mở rộng; mối quan hệ giữa độc lập, tự chủ và hội nhập quốc tế cũng được đặt ra từ rất sớm. Báo cáo chính trị Đại hội VI của Đảng nêu định hướng: “giữ vững độc lập tự chủ, tăng cường hợp tác quốc tế, ra sức làm tròn nhiệm vụ dân tộc và làm tốt nghĩa vụ quốc tế đối với nhân dân thế giới”(16). Báo cáo chính trị Đại hội VIII của Đảng lần đầu tiên tách “độc lập, tự chủ” với hàm ý phân biệt giữa “độc lập” - quyền của quốc gia theo luật pháp quốc tế và “tự chủ” - năng lực của quốc gia trong thực hiện quyền tự chủ, và để đề cao tầm quan trọng của việc bảo đảm mối quan hệ giữa “độc lập” và “tự chủ” trong đối ngoại. Đại hội khẳng định “độc lập, tự chủ” là thành tựu lớn về lý luận; nhấn mạnh tầm quan trọng của “tự chủ”, tập trung nâng cao sức mạnh tổng hợp quốc gia để củng cố năng lực tự chủ, có tự chủ mới bảo đảm được độc lập. Đồng thời, để bảo đảm được “độc lập, tự chủ” trong bối cảnh mở cửa thì “đa dạng hóa, đa phương hóa” là phương cách duy nhất của một nước vừa và nhỏ nhằm tránh sự phụ thuộc vào một hay một vài đối tác nào đó, cũng như tạo ra được sự tùy thuộc lẫn nhau với nhiều đối tác. Điều này được cho là đã, đang và sẽ phù hợp với nước ta.
Riêng về hội nhập quốc tế, Đảng ta lựa chọn cách tiếp cận từng bước, từ hội nhập kinh tế (Đại hội VIII): “xây dựng một nền kinh tế mở, hội nhập với khu vực và thế giới, hướng mạnh về xuất khẩu, đồng thời thay thế nhập khẩu bằng những sản phẩm trong nước sản xuất có hiệu quả”(17), “Điều chỉnh cơ cấu thị trường để vừa hội nhập khu vực vừa hội nhập toàn cầu, xử lý đúng đắn lợi ích giữa ta với các đối tác”(18), đến hội nhập toàn diện (Đại hội XI): “Thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hợp tác và phát triển; đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ, chủ động và tích cực hội nhập quốc tế”(19). Triển khai Nghị quyết Đại hội XI của Đảng, Bộ Chính trị ban hành Nghị quyết số 22-NQ/TW, ngày 10-4-2013, “Về hội nhập quốc tế”, trong đó xác định rõ khái niệm, quan điểm chỉ đạo và các định hướng lớn cho hội nhập quốc tế trên tất cả các lĩnh vực, nhất là chính trị, quốc phòng, văn hóa, xã hội và các lĩnh vực khác. Nghị quyết cũng khẳng định lại mối quan hệ giữa hội nhập kinh tế và hội nhập quốc tế trên tất cả lĩnh vực khác; mối quan hệ giữa hội nhập quốc tế và mức độ “sẵn sàng” hội nhập của đất nước: “Hội nhập kinh tế là trọng tâm, hội nhập trong các lĩnh vực khác phải tạo thuận lợi cho hội nhập kinh tế và góp phần tích cực vào phát triển kinh tế, củng cố quốc phòng, bảo đảm an ninh quốc gia, giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc, thúc đẩy phát triển văn hóa, xã hội; hội nhập trong các lĩnh vực phải được thực hiện đồng bộ trong một chiến lược hội nhập quốc tế tổng thể với lộ trình, bước đi phù hợp với điều kiện thực tế và năng lực của đất nước”(20).
Ủy viên Bộ Chính trị, Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính trao đổi với đại diện các tổ chức, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tại Việt Nam _Ảnh: TTXVN
8- Phương châm xử lý những vấn đề phức tạp
Bắt đầu từ Đại hội XII, Đảng ta nhấn mạnh phương châm “kiên quyết, kiên trì” trong xử lý những vấn đề liên quan đến biên giới, lãnh thổ, đến những khác biệt về dân chủ, nhân quyền và tự do tôn giáo...; “kiên quyết, kiên trì đấu tranh bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa”. Đại hội XIII của Đảng tiếp tục nhấn mạnh: “Kiên quyết, kiên trì đấu tranh, làm thất bại mọi âm mưu, hành động can thiệp của các thế lực thù địch vào công việc nội bộ, xâm phạm độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, an ninh quốc gia và ổn định chính trị đất nước”. Đây không chỉ là sự thể hiện sự phát triển quan trọng về lý luận, mà còn có ý nghĩa hết sức thiết thực trong công tác chỉ đạo hành động. Phải “kiên quyết” đấu tranh vì những vấn đề này đều thuộc phạm vi cốt lõi của lợi ích quốc gia - dân tộc; đồng thời, phải “kiên trì” vận dụng tất cả các biện pháp hòa bình được nêu trong Điều 33 Hiến chương Liên hợp quốc, bao gồm: “đàm phán, điều tra, trung gian, hòa giải, trọng tài, tòa án, sử dụng những tổ chức hoặc những điều ước khu vực, hoặc bằng các biện pháp hòa bình khác”(21), trước khi thực hiện các biện pháp “kiên quyết”.
9- Định hướng đối ngoại song phương và đối ngoại đa phương
Về đối ngoại song phương, từ Đại hội X, Đảng ta nhấn mạnh: “Đưa các quan hệ quốc tế đã được thiết lập vào chiều sâu, ổn định, bền vững”(22). Đây là sự phát triển tất yếu trong đường lối đối ngoại của Đảng sau khi nước ta đã thiết lập quan hệ với hầu hết các nước trên thế giới cũng như các tổ chức khu vực và quốc tế lớn. Đại hội X của Đảng không đưa ra nội hàm cụ thể của “chiều sâu”, nhưng các định hướng triển khai trong các lĩnh vực thể hiện khá tập trung ở ba tiêu chí mà chúng ta muốn đạt được trong quan hệ với đối tác. Đó là, gia tăng mức độ đan xen lợi ích, nhất là các lợi ích lớn, lợi ích lâu dài; gia tăng số lượng và hiệu quả các cơ chế hợp tác để thúc đẩy quan hệ cũng như xử lý các vấn đề nảy sinh. Về đối ngoại đa phương, vấn đề này được Đảng ta nêu từ rất sớm, thể hiện qua các định hướng tham gia ASEAN, Diễn đàn Hợp tác kinh tế châu Á - Thái Bình Dương (APEC), Diễn đàn Hợp tác Á - Âu (ASEM), Liên hợp quốc... Khi nước ta đã tham gia tích cực vào hầu hết cơ chế hợp tác đa phương khu vực và toàn cầu, một bước phát triển mới về lý luận đối ngoại đa phương được nhấn mạnh trong Chỉ thị số 25-CT/TW, ngày 8-8-2018, của Ban Bí thư, “Về đẩy mạnh và nâng tầm đối ngoại đa phương đến năm 2030”; tiếp đó, được đưa vào định hướng trong Báo cáo chính trị Đại hội XII của Đảng, nhấn mạnh chúng ta phải chủ động, tích cực hơn trong việc tham gia vai trò dẫn dắt, định hướng, trung gian, hòa giải,... thể hiện trách nhiệm lớn hơn trong các tổ chức, diễn đàn khu vực và toàn cầu. Định hướng đối ngoại song phương và đối ngoại đa phương là phát triển lý luận quan trọng trong bối cảnh đất nước ta bước vào giai đoạn phát triển mới, với thế và lực mới, do vậy đối ngoại phải đáp ứng những yêu cầu mới của nhiệm vụ phát triển và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
10- Vai trò tiên phong của đối ngoại
Văn kiện Đại hội XIII của Đảng khẳng định: “Tiếp tục phát huy vai trò tiên phong của đối ngoại trong việc tạo lập và giữ vững môi trường hòa bình, ổn định, huy động các nguồn lực bên ngoài để phát triển đất nước, nâng cao vị thế và uy tín của đất nước”(23). Đây là bước kế thừa truyền thống coi trọng đối ngoại/ngoại giao của ông cha ta trong suốt tiến trình lịch sử dựng nước và giữ nước; cũng là tiếp thu tinh hoa trong các trường phái ngoại giao lớn của nhân loại. Xác định nhiệm vụ “tiên phong” của đối ngoại, Đảng ta giao cho đối ngoại ba vai trò quan trọng: 1- Tạo lập môi trường hòa bình, ổn định; 2- Gìn giữ môi trường hòa bình, ổn định; 3- Khai thác hiệu quả môi trường hòa bình, ổn định cho các mục tiêu bảo đảm an ninh, phát triển và nâng cao vị thế của đất nước.
Quan gần 40 năm đổi mới, cục diện đối ngoại của nước ta đã thay đổi căn bản. Từ một nước bị bao vây cấm vận, Việt Nam đã trở thành một thành viên tích cực, có trách nhiệm của cộng đồng quốc tế, được bầu vào Hội đồng Bảo an với số phiếu cao nhất trong lịch sử 75 năm của Liên hợp quốc; có mạng lưới đối tác chiến lược, đối tác toàn diện, mạng lưới hiệp định thương mại tự do (FTA) rộng lớn nhất trong khu vực. Các thành tựu này bắt nguồn trước hết từ những phát triển về lý luận đối ngoại của Đảng ta. Những thay đổi của khu vực và thế giới, mục tiêu xây dựng một nước Việt Nam hùng cường đặt ra cho nước ta yêu cầu mới về phát triển lý luận, trong đó có lý luận đối ngoại. Thành tựu phát triển lý luận đối ngoại gần bốn thập niên qua là vốn quý để chúng ta tiếp tục triển khai thành công các nhiệm vụ đối ngoại, đồng thời đóng góp hiệu quả hơn vào quá trình phát triển lý luận của Đảng về đối ngoại trong thời gian tới./.
----------------------------
(1) Hải Minh: “Gia nhập ASEAN: Quyết sách lịch sử của Bộ Chính trị”, Cổng thông tin điện tử Chính phủ, ngày 7/8/2017
(2) Mâu thuẫn giữa chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa tư bản; mâu thuẫn giữa giai cấp tư sản và giai cấp công nhân, giữa tư bản và lao động; mâu thuẫn giữa các dân tộc thuộc địa, phụ thuộc và kém phát triển với chủ nghĩa đế quốc; mâu thuẫn giữa các nước tư bản chủ nghĩa
(3) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1996, tr. 17
(4) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2011, tr. 67
(5) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII, Sđd, tr. 78
(6) Văn kiện Đại hội Đảng thời kỳ đổi mới (Đại hội VI, VII, VIII, IX), Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2005, tr. 617
(7) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2006, tr. 73
(8) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Sđd, tr. 183
(9) Ban Tư tưởng Văn hóa Trung ương: Tài liệu học tập Nghị quyết Hội nghị lần thứ tám Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa IX, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2003, tr. 44
(10) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI, Nxb. Sự thật, Hà Nội, 1987, tr. 99
(11) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Sđd, tr. 83 - 84
(12) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, t. I, tr. 161 - 162
(13) Bác Hồ nói chuyện tại Hội nghị Ngoại giao năm 1964. Hồ sơ lưu trữ Bộ Ngoại giao Việt Nam
(14) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Văn phòng Trung ương Đảng, Hà Nội, 2016, tr. 161 - 162
(15) Không tham gia liên minh quân sự, không liên kết với nước này để chống nước kia, không cho nước ngoài đặt căn cứ quân sự hoặc sử dụng lãnh thổ Việt Nam để chống lại nước khác, không sử dụng vũ lực hoặc đe dọa sử dụng vũ lực trong quan hệ quốc tế
(16), (17) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI, Sđd, tr. 109, 21
(18) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII, Sđd, tr. 90 - 91
(19) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Sđd, tr. 83
(20) Nghị quyết số 22-NQ/TW, ngày 10-4-2013, của Bộ Chính trị “Về hội nhập quốc tế”
(21) Hiến chương Liên hợp quốc, ngày 26-6-1945
(22) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Sđd, tr. 112
(23) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Sđd, t. I, tr. 162