Nhân dịp kỉ niệm 20 năm ngày thành lập Ủy ban công tác phi chính phủ nước ngoài, phóng viên VUFO đã phỏng vấn ông Đôn Tuấn Phong, Phó Chủ nhiệm Ủy ban, Phó Chủ tịch phụ trách kiêm Tổng thư kí Liên hiệp Hữu nghị.
Ông Đôn Tuấn Phong (ảnh: TV)
PV: Công tác xây dựng, hoàn thiện văn bản pháp lý luôn được chú trọng nhằm tạo điều kiện tốt nhất cho các tổ chức PCP hoạt động. Vậy, xin ông chia sẻ thêm về nỗ lực của Việt Nam cũng như những điểm sáng trong công tác hoàn thiện văn bản pháp lý 20 năm qua?
Ông Đôn Tuấn Phong: Năm 1996, Việt Nam có 1 Quy chế quản lý hoạt động của các tổ chức PCPNN tại Việt Nam. Năm 2001, cùng với việc thành lập Ủy ban, Thủ tướng ban hành Quy chế quản lý và sử dụng viện trợ PCPNN, quy chế này nhằm tăng cường trách nhiệm của các cấp, các ngành trong việc hợp tác với các tổ chức PCPNN, trực tiếp trong việc tiếp nhận và sử dụng nguồn viện trợ. Đảm bảo trách nhiệm của phía Việt Nam nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả của nguồn viện trợ PCPNN, đảm bảo công tác quản lý nguồn viện trợ này. Năm 2009 quy chế quản lý và vận động viện trợ được nâng cấp thành Nghị định, đảm bảo tính pháp lý.
Năm 2012, Thủ tướng ban hành Nghị định 12 về đăng ký và quản lý các tổ chức PCPNN tại Việt Nam. Một mặt là sự nâng cấp về khung pháp lý, đồng thời thể hiện sự đổi mới trong công tác PCPNN nhìn từ góc độ quản lý nhà nước. Với nhiều quy định thuận lợi như thời hạn giấy đăng ký dài hơn, khuyến khích các chương trình có quy mô lớn và có thời gian dài hạn. quy định cụ thể quyền, trách nhiệm của các tổ chức PCPNN đến Việt Nam, trách nhiệm của các cơ quan Việt Nam trong hợp tác với các tổ chức PCPNN. Có thể nói, đến nay, khung pháp lý cho các tổ chức PCPNN hoạt động tại Việt Nam đã tương đối toàn diện. Bao hàm cả quy định về hoạt động và quản lý, sử dụng viện trợ PCPNN.
PV: Liên hiệp Hữu nghị là cơ quan thường trực cho Ủy ban, vậy ông đánh giá thế nào về vai trò của Liên hiệp trong quá trình triển khai công tác PCPNN thời gian qua. Trong quá trình triển khai, Liên hiệp Hữu nghị gặp những thuận lợi và khó khăn gì, thưa ông?
Ông Đôn Tuấn Phong: Trước khi Ủy ban được thành lập Liên hiệp Hữu nghị được giao nhiệm vụ là cơ quan đầu mối trong quan hệ với các tổ chức PCPNN. Khi đó chưa có 1 cơ quan quản lý chung nhất, khi có Ủy ban, có 1 cơ quan liên ngành quản lý thống nhất hoạt động của các tổ chức. Qua đó tạo thuận lợi trong quan hệ giữa các tổ chức PCPNN và các bộ ngành của Việt Nam. Trong khuôn khổ Ủy ban, Liên hiệp Hữu nghị được giao nhiệm vụ là cơ quan thường trực giải quyết các vấn đề liên quan đến PCPNN, đầu mối trong quan hệ và vận động nguồn viện trợ của các tổ chức PCPNN, gắn bó chặt chẽ công tác PCPNN với công tác đối ngoại nhân dân, tranh thủ nguồn viện trợ của các tổ chức PCPNN với các mục tiêu hòa bình, hữu nghị hợp tác nhân dân giữa nhân dân Việt Nam với nhân dân các nước trên thế giới.
Về mặt thuận lợi, đó là sự quan tâm, chỉ đạo của Đảng, Chính phủ. Đặc biệt thông qua chính sách cụ thể về công tác PCPNN, định hướng từ trung ương đến địa phương. Bên cạnh đó, sự hợp tác chặt chẽ của Bộ, ngành địa phương trong công tác PCPNN, từ quản lý đến vận động nguồn viện trợ cũng đem lại hiệu quả cao trong việc thu hút các nguồn viện trợ. Trong quá trình hoạt động, Liên hiệp Hữu nghị luôn nhận được sự hợp tác chặt chẽ, hiệu quả của các tổ chức PCPNN, đối tác nước ngoài. Các yếu tố đó giúp Liên hiệp Hữu nghị hoàn thành được công việc đặt ra.
Bên cạnh các thuận lợi, hoạt động của Liên hiệp Hữu nghị còn gặp một số khó khăn. Trong cơ chế Ủy ban liên ngành, yêu cầu đòi hỏi sự phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan. Trong khi các cơ quan khác là các bộ, ngành chức năng, trong khi đó Liên hiệp Hữu nghị là 1 tổ chức chính trị - xã hội, đây là một hạn chế khi đề xuất các chủ trương, chính sách.
Về mặt nguồn lực, Liên hiệp Hữu nghị thực hiện nhiệm vụ trong điều kiện eo hẹp trong biên chế và kinh phí hoạt động. Ủy ban không có bộ máy, nhân sự mà sử dụng bộ máy và biên chế của Liên hiệp Hữu nghị. Việc thiếu nhân sự, nguồn lực ảnh hưởng nhất định trong việc triển khai nhiệm vụ, đặc biệt là nhiệm vụ mở rộng quan hệ hợp tác, tăng cường kiểm tra giám sát hoạt động của các tổ chức PCPNN cũng như quá trình hợp tác với các cơ quan, tổ chức của Việt Nam.
PV: Xin ông cho biết, để thực hiện thành công công tác xúc tiến vận động viện trợ PCPNN, chúng ta đã làm được gì và sẽ cần gì trong thời gian tới?
Ông Đôn Tuấn Phong: Là cơ quan đầu mối vận động viện trợ, Liên hiệp Hữu nghị đã nỗ lực tăng cường hợp tác, vận động với các tổ chức PCPNN, để hỗ trợ phát triển kinh tế, xã hội. Về mặt chính sách, Liên hiệp Hữu nghị đề xuất với Đảng, Nhà nước chủ trương, chính sách tạo hành lang pháp lý thuận lợi cho các tổ chức PCPNN đến Việt Nam hoạt động. Liên hiệp Hữu nghị đã kiến nghị và được Thủ tướng phê duyệt Chương trình xúc tiến vận động viện trợ PCPNN theo các giai đoạn 2006 - 2010 và 2013 - 2017.
Hiện Ủy ban đang đề xuất Thủ tướng Chính phủ xem xét đề xuất Chương trình quốc gia giai đoạn tiếp theo. Chương trình nêu rõ các nhu cầu của Việt Nam tại các bộ ngành, địa phương, khuyến khích các tổ chức PCPNN hỗ trợ trong lĩnh vực đó. Cùng với các biện pháp vận động viện trợ như tăng cường chia sẻ thông tin, tăng cường hoàn thiện khuôn khổ pháp lý cho hoạt động và viện trợ của các tổ chức PCPNN, công tác vận động viện trợ đã đạt được nhiều thành tựu. giá trị viện trợ trong nhiều năm qua đã ghi nhận kết quả tốt. Từ năm 1996 đến 2017, tổng giá trị viện trợ PCPNN giải ngân ước tỉnh trên 4,3 tỉ đô la Mỹ. Đây là một nguồn lực có ý nghĩa giúp giải quyết một phần khó khăn về kinh tế, xã hội, giảm nghèo và phát triển bền vững.
PV: Trong bối cảnh Việt Nam đã trở thành quốc gia có thu nhập trung bình thấp, nguồn viện trợ từ các tổ chức PCPNN sẽ ngày càng eo hẹp, xin ông chia sẻ một số giải pháp nhằm thúc đẩy hơn vận động viện trợ.
Ông Đôn Tuấn Phong: Khi Việt Nam trở thành nước có thu nhập trung bình thấp, xu hướng chung là các nhà tài trợ quốc tế sẽ giảm ưu tiên Việt Nam. Các nhà tài trợ ODA đã hoặc đang rút khỏi Việt Nam. Các tổ chức tài chính quốc tế áp dụng các cơ chế tín dụng ít ưu đãi hơn hoặc không ưu đãi. Trong bối cảnh đó, nguồn lực cho hoạt động của các tổ chức PCPNN sẽ bị ảnh hưởng, vì một phần nguồn viện trợ của các tổ chức PCPNN đến từ nguồn ODA. Tuy nhiên, tác động của nguồn ODA đến viện trợ PCPNN ở Việt Nam là không lớn. Nguồn lực cơ bản đến từ các tổ chức PCPNN, từ công chúng, các doanh nghiệp và các quĩ đầu tư tư nhân. Khi các nhà tài trợ quốc tế, các tổ chức song phương, đa phương rút khỏi Việt Nam, sẽ xuất hiện khoảng trống về nhu cầu chưa được đáp ứng.
Mặc dù Việt Nam trở thành nước có thu nhập trung bình thấp nhưng còn nhiều khó khăn và thách thức. Khó khăn như hậu quả chiến tranh còn kéo dài, một số nhóm đặc biệt như nạn nhân chất độc da cam, người khuyết tật, đồng bào dân tộc thiểu số vùng sâu, vùng xa. Bên cạnh đó, chênh lệch vùng miền, đời sống nhân dân ở một số địa bàn rất khó khăn và còn một số tác động mang tính phi truyền thống như tác động của biến đổi khí hậu hoặc những vấn đề xuyên biên giới. Những khó khăn trên cho thấy vẫn có vị trí cho các tổ chức PCPNN với tư cách là các đối tác trong phát triển, tiếp tục cùng với Việt Nam giải quyết các khó khăn thách thức đó.
Sự quan tâm của các tổ chức PCPNN vẫn tiếp tục, tuy nhiên công tác vận động viện trợ của các tổ chức PCPNN phải thay đổi, gắn chặt với những ưu tiên của Việt Nam, nhu cầu của địa phương nhưng vẫn mang tính khả thi, phù hợp với định hướng của từng địa phương, ngành. Ngoài việc huy động nguồn lực từ các tổ chức PCPNN, chúng ta cần tăng cường hợp tác với họ nhằm huy động từ các nguồn lực khác để triển khai các hoạt động nhân đạo thông qua các tổ chức PCPNN.
PV: Xin ông chia sẻ một số thông tin về Chương trình Quốc gia giai đoạn tới?
Ông Đôn Tuấn Phong: Mục tiêu trong giai đoạn tới tăng cường hợp tác với các tổ chức PCPNN vì mục tiêu nhân đạo, phát triển. Các lĩnh vực ưu tiên vừa mang tính truyền thống và thời đại. Có những vấn đề, tuy đã được quan tâm trong thời gian qua, nhưng vẫn còn khó khăn như khắc phục hậu quả chiến tranh, rà phá bom mìn, vật liệu chưa nổ, tẩy rửa các điểm nhiễm chất độc hóa học… Về vấn đề ứng phó với biến đổi khí hậu, các tổ chức PCPNN rất quan tâm, đang dành các nguồn lực cao nhất cho Việt Nam do đó chúng ta cần lựa chọn cách thức phù hợp để hợp tác với các tổ chức PCPNN.
Chương trình quốc gia sắp tới cũng xác định biện pháp để tổ chức thực hiện nhằm đảm bảo sự tham gia tích cực của các cấp, các ngành, địa phương và cộng đồng từ quá trình lập kế hoạch đến thiết kế, triển khai, kiểm tra, giám sát và đánh giá các dự án, chương trình cho các tổ chức PCPNN tài trợ. Chương trình quốc gia dự kiến tiếp tục kiến nghị Chính phủ xem xét có chính sách hoặc sửa đổi các chính sách hiện có theo hướng thuận lợi hơn cho các tổ chức PCPNN, người nước ngoài đến Việt Nam thực hiện các chương trình nhân đạo. thông qua hợp tác với các tổ chức PCPNN để tăng cường hiểu biết quốc tế, giao lưu và hợp tác giữa nhân dân Việt Nam với nhân dân các nước trên thế giới. Đây là một nội dung trong chủ trương tích cực và chủ động hội nhập và hợp tác quốc tế.
PV: Xin ông chia sẻ các tổ chức PCPNN có vai trò thế nào trong việc thúc đẩy ngoại giao nhân dân, tăng cường hiểu biết lẫn nhau, vì đoàn kết quốc tế và phát triển thịnh vượng.
Ông Đôn Tuấn Phong: Các tổ chức PCPNN đã giúp đỡ Việt Nam với nhiều phương thức khác nhau. Trên các diễn đàn thế giới, các tổ chức PCPNN có mặt và bày tỏ chính kiến trực tiếp bảo vệ hình ảnh và những thông tin thực tế của Việt Nam, nhất là trên các vấn đề tôn giáo, dân chủ, nhân quyền. Các tổ chức PCPNN còn góp phần phản bác lại những luận điệu không đúng về tình hình thực tế ở Việt Nam. Các tổ chức PCPNN, các tổ chức nhân dân nước ngoài giúp đỡ và hỗ trợ về nội dung khi tham gia các diễn đàn quốc tế.
Thông qua các hoạt động của mình, bằng việc thực hiện các hoạt động tại Việt Nam, các tổ chức PCPNN sẽ biết và hiểu hơn về Việt Nam. Với thông tin có được, họ sẽ chia sẻ với cộng đồng các nhà tài trợ, cá nhân, tổ chức về tình hình Việt Nam và chính sách phát triển cũng như thách thức đối với Việt Nam. Có những tổ chức PCPNN có mạng lưới nhà bảo trợ lên đến hàng triệu người trên thế giới, thông qua hoạt động của mình, các tổ chức PCPNN tuyên truyền cho bạn bè quốc tế, nhân dân thế giới về một Việt Nam đang đổi mới, phát triển, đời sống ngày càng thịnh vượng, chính sách ngày càng rộng mở.
PV: Trân trọng cảm ơn ông!
MD