Ảnh: TV
Thay mặt lãnh đạo Liên hiệp Hữu nghị, ông Nguyễn Tâm Chiến, Chủ tịch Hội Việt – Mỹ trao Bằng khen cho tổ chức VFP và Kỷ niệm chương “Vì hòa bình, hữu nghị giữa các dân tộc” cho ông Paul Cox, thành viên Hội đồng quản trị Tổ chức Cựu chiến binh vì Hòa bình, Chi nhánh Hòa bình 160.
Phát biểu tại buổi Lễ, Chủ tịch Hội Việt – Mỹ Nguyễn Tâm Chiến đánh giá cao những đóng góp tích cực của VFP vào quá trình bình thường hóa quan hệ Việt – Mỹ, hàn gắn vết thương chiến tranh Mỹ. Ông cũng khẳng định VFP là cầu nối quan trọng trong việc xây dựng quan hệ tốt đẹp giữa hai nước.
Kể từ khi được thành lập năm 1985, Tổ chức Cựu Chiến Binh vì Hoà Bình đã và đang đóng vai trò quan trọng trong những nỗ lực nhằm kết thúc những cuộc chiến tranh và mang lại hoà bình cho các quốc gia và người dân trên toàn thế giới.
Các thành viên của tổ chức trên khắp thế giới đã tổ chức những cuộc nói chuyện ở các trường đại học, các buổi họp ở các thành phố, những buổi toạ đàm, chiến dịch...để phản đối các cuộc chiến tranh của Mỹ trên toàn thế giới. Nhiều thành viên của tổ chức đã bị bắt giam vì đã hành động chống lại chủ trương chiến tranh, sự giam cầm vô căn cứ, tra tấn và sử dụng máy bay không người lái để đe doạ người dân địa phương. Hiện nay, VFP đang là một tổ chức phi chính phủ tại Liêp hợp quốc và là thành viên của liên minh giải thưởng Hoà Bình cho việc cấm bom mìn.
Tổ chức đã có nhiều đóng góp cho Việt Nam, đặc biệt từ năm 2009, Chương Hoà Bình (160) được hình thành và là Chương quốc tế đầu tiên của VFP. Kể từ đó, Chương 160 đã tài trợ hơn 250.000 đô la Mỹ cho các dự án nhân đạo ở Việt nam, bao gồm dự án bom bìn, vật liệu nổ còn sót lại, cung cấp dịch vụ chăm sóc y tế cho nạn nhân chất độc da cam/dioxin, cung cấp chân tay giả, thiết bị hỗ trợ cho người khuyết chi, người khuyết tật vận động ở Việt Nam, sửa chữa và xây mới nhà cửa, các dự án tạo thu nhập cho người dân.
Một trong những cá nhân của VFP hoạt động tích cực và có nhiều đóng góp cho Việt Nam là ông Paul Cox, người thể hiện tình hữu nghị và các hoạt động đoàn kết với nhân dân Việt Nam cách đây 50 năm về trước.
Năm 1969, Paul Cox được điều sang Việt Nam là lính thủy đánh bộ. Ông sớm nhận ra rằng cuộc chiến chống lại nhân dân Việt Nam không phải là mục đích phục vụ đất nước ông. Từ đó, ông chống lại cuộc chiến.
Khi trở về nước Mỹ hoàn thành nốt nghĩa vụ quân sự, Paul và các đồng đội phản đối cuộc chiến, đã khởi xướng một tờ báo bí mật gọi là RAGE. Họ đã sử dụng tờ báo bày tỏ sự phản đối mạnh mẽ về cuộc chiến ở Việt Nam.
Sau khi rời khỏi quân ngũ năm 1972, Paul tiếp tục lên tiếng chống lại cuộc chiến tranh ở một tờ báo bí mật khác, Up Against the Bulkhead, nhằm mục đích dấy lên sự tranh đấu ngay trong nội bộ lực lượng Hải quân và Không quân chống lại các cuộc không kích ở Việt Nam.
Khi chiến tranh kết thúc vào ngày 30/4/1975, Paul nhập cùng với những người Việt Nam chào mừng hòa bình. Ông còn chia sẻ nỗi đau buồn sâu sắc là sự cảm nhận chung của rất nhiều người về những sự mất mát khủng khiếp do chiến tranh gây ra.
Thậm chí trong thời gian hòa bình, Paul tiếp tục lên tiếng chông chiến tranh, đòi hỏi công lý. Với tư cách là người sáng lập tổ chức Liên minh Phát ngôn viên Cựu chiến binh vào những năm 1980, Paul đã tới nói chuyện tại hàng trăm trường học và các sinh viên đại học về những trải nghiệm khủng khiếp khi tham chiến ở Việt Nam.
Từ năm 2005, Paul Cox đã làm việc với Chương trình Trách nhiệm và Giảm thiểu đối với Nạn nhân chất độc da cam Việt Nam (VAORRC), hợp tác chặt chẽ với Hội Nạn nhân Chất độc Da cam Việt Nam (VAVA), để ủng hộ vụ kiện của VAVA đối với các công ty hóa chất Mỹ đã sản xuất ra chất diệt cỏ - trong đó có chất độc da cam – sử dụng ở Miền Trung và miền Nam Việt Nam, Cam-pu-chia và Lào trong chiến tranh. Khi vụ kiện thất bại, VAORC chuyển trọng tâm vấn đề về phía lập pháp. Từ năm 2011, nữ thượng nghị sĩ tiến bộ Barbara Lee đã tài trợ tài liệu lập pháp được viết bởi VAORC và Cox nhằm tẩy sạch những khu vực ô nhiễm ở Việt Nam và hỗ trợ nạn nhân chất độc da cam ở cả Việt Nam và Mỹ.
Là một thành viên trong Hội đồng quản trị Tổ chức Cựu chiến binh vì Hòa bình, Chi nhánh Hòa bình 160, Paul đã giúp tổ chức các chuyển thăm mang tính giáo dục đến Việt Nam trong 8 năm qua. Ông đã trở lại Việt Nam 5 lần sau khi chiến tranh kết thúc để tự tu dưỡng mình và những người khác về hai vấn đề còn đang hiện hữu của cuộc chiến tranh của Mỹ tại Việt Nam - Chất độc da cam và Vật nổ.
Paul Cox luôn năng nổ trong việc xác định các dự án và nhu cầu ở Việt Nam, khích lệ các cá nhân và tổ chức đóng góp ngân quỹ để giải quyết chúng. Ông đã khuyến khích các cựu chiến binh Mỹ trở lại, thăm Việt Nam, cống hiến một phần thời gian và sức lực của họ giúp nhân dân Việt Nam giải quyết những hậu quả chiến tranh.
Ông Paul Cox phát biểu (Ảnh: TV)
Bày tỏ vinh dự khi được nhận Kỷ niệm chương, ông Paul Cox chia sẻ, ông và VFP sẽ tiếp tục nỗ lực để có nhiều đóng góp hơn nữa cho Việt Nam nhất là về vấn đề giải quyết hậu quả chiến tranh; đồng thời đóng vai trò cầu nối nhằm thúc đẩy quan hệ Việt – Mỹ ngày càng phát triển, hướng tới tương lai tốt đẹp của hai quốc gia.
Quảng cảnh buổi tọa đàm (Ảnh: TV)
Cùng ngày, Hội Việt - Mỹ thuộc Liên hiệp Hữu nghị đã tổ chức buổi tọa đàm “Quan hệ cựu chiến binh Việt - Mỹ: hiểu biêt, hợp tác và phát triển”. Tại Tọa đàm, các thành viên của đoàn VFP và đại diện Hội cựu chiến binh Việt Nam đã trao đổi các biện pháp để tăng cường hiểu biết và hợp tác giữa hai nước Việt Nam và Mỹ.
N. Yến