Sau Cách mạng Tháng Tám năm 1945, Việt Nam đã trở thành quốc gia có độc lập, chủ quyền và có tên trên bản đồ thế giới. Nhân dân Việt Nam chính thức trở thành người làm chủ đất nước. Cũng từ đây, Việt Nam luôn nỗ lực, cố gắng để bảo đảm quyền con người cho mọi người dân.
Dù trong chiến tranh hay hòa bình, quyền con người luôn được Đảng, Nhà nước quan tâm để mọi người dân được sống trong một đất nước dân chủ, công bằng và tiến bộ. Việt Nam cũng đã trở thành thành viên của Hội đồng Nhân quyền Liên Hợp Quốc nhiệm kỳ 2014 - 2016 và đang ửng cử vào vị trí thành viên Hội đồng Nhân quyền Liên Hợp Quốc nhiệm kỳ 2023 - 2025. Đây là thực tế sinh động khẳng định những thành tựu trong việc bảo đảm quyền con người ở Việt Nam.
Theo Tiến sĩ Cao Đức Thái, nguyên Viện trưởng Viện Nghiên cứu quyền con người, Học viện chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, việc Việt Nam ứng cử thành viên Hội đồng Nhân quyền Liên Hợp Quốc một nhiệm kỳ nữa cho thấy 3 lý do: Thứ nhất, chúng ta muốn khẳng định nhân quyền. Thứ hai, chúng ta muốn lan tỏa những giá trị của mình. Thứ ba, chúng ta muốn thể hiện nhận thức mới của mình về nhân quyền đối với những giá trị của thời đại hiện nay.
Tiến sĩ Cao Đức Thái, nguyên Viện trưởng Viện Nghiên cứu quyền con người, Học viện chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh (Ảnh: Internet)
Việc thực thi quyền con người ở Việt Nam chứa đựng tinh thần nhân ái
PV: Theo ông, việc chúng ta giành được độc lập, chủ quyền như vậy thì có ý nghĩa như thế nào về việc bảo đảm quyền con người, quyền tự do, dân chủ cho mọi người dân?
Tiến sĩ Cao Đức Thái: Quyền con người là một chế định pháp luật, trong đó các quyền về vật chất, như ăn ở, đi lại đã được cộng đồng quốc tế ghi nhận từ rất lâu. Nhưng ở Việt Nam, dưới chế độ thực dân phong kiến, người dân Việt Nam tất nhiên là không thể có quyền con người. Tất cả người Việt Nam lúc đó bị thực dân Pháp gọi là Anamit, với từ ngữ khinh bỉ, bởi chữ này đồng nghĩa với chữ lạc hậu, bẩn thỉu.
Cuộc Cách mạng Tháng Tám đã thay đổi, không chỉ là số phận của dân tộc, mà còn thay đổi cả số phận của mỗi người. Từ thân phận nô lệ của một nước thuộc địa trở thành người dân của một quốc gia độc lập có chủ quyền.
PV: Cũng chính vì vậy mà có ý kiến còn cho rằng, việc bảo đảm thực thi quyền con người ở Việt Nam chứa đựng tinh thần nhân ái, nhân văn cao cả. Đây là lý do Việt Nam được cộng đồng quốc tế ghi nhận và đánh giá cao?
Tiến sĩ Cao Đức Thái: Đúng vậy, trong thời kỳ Việt Nam bị dịch Covid, một người nước ngoài đã được các y, bác sỹ và người dân Việt Nam cứu chữa khỏi bệnh và trở về nước. Ông đã nói rằng, nếu không phải Việt Nam, chắc tôi đã chết rồi. Các bạn cũng đã thấy, ở những nơi mà dịch bùng phát thì những người dân, kể cả cụ già, em bé đã mang thức ăn đến nơi tập trung, không biết cần gửi cho ai thì họ để ở cửa, để cho người thiếu lương thực dùng khi hoạn nạn. Nhà nước đã có các cây gạo ATM miễn phí, mỗi người được lấy 3kg. Điều này tôi nhắc lại thôi nhưng chắc các bạn cũng đã có những thông tin như thế. Điều này chứng tỏ rằng, Nhà nước và nhân dân Việt Nam không phải chỉ có tinh thần, không phải chỉ có việc bảo đảm quyền con người mà chúng ta còn đi xa hơn cái quyền ấy. Đấy là tinh thần nhân đạo, sự khoan dung, lòng yêu thương con người.
PV: Vậy, ông có cho rằng, chúng ta có được những thành tựu về quyền con người như vậy là do chúng ta đã thay đổi tư duy trong việc tiếp cận quyền con người cũng như vấn đề đối ngoại, hội nhập quốc tế?
Tiến sĩ Cao Đức Thái: Đúng thế, tôi muốn nói rằng, tuy đất nước còn nghèo nhưng chúng ta đã kết nối Internet với thế giới. Hiện nay, từ Việt Nam, chúng ta đã có thể tiếp cận được với tất cả các trang mạng cơ bản, kể cả những trang mạng chuyên chống phá Việt Nam. Người dân đều có thể truy cập những trang mạng này, thậm chí có người còn cho rằng, đây cũng là một điều kiện, một cơ hội tốt để chúng ta thấy được bản chất của các thế lực thù địch chống phá.
Cho nên, mong muốn trở thành thành viên của Hội đồng Nhân quyền của Viêt Nam thể hiện 3 mục tiêu: Thứ nhất, chúng ta muốn khẳng định nhân quyền. Thứ hai, chúng ta muốn lan tỏa những giá trị của mình. Thứ ba, chúng ta muốn thể hiện nhận thức mới của mình về nhân quyền đối với những giá trị của thời đại hiện nay.
Tôi cũng phải nói thêm rằng, Việt Nam không coi những nước khác hệ tư tưởng là thù địch, mà chúng ta đưa ra quan điểm về đối tác, đối tượng một cách cởi mở, rộng rãi và rất minh bạch. Việt Nam muốn làm bạn với tất cả các nước, không phân biệt chế độ xã hội, trình độ phát triển. Với Việt Nam bây giờ chỉ có đối tác, đối tượng. Những ai chống Việt Nam là đối tượng. Còn những ai ủng hộ Việt Nam là đối tác. Như vậy, Việt Nam đã thoát khỏi tư duy của thời kỳ chiến tranh lạnh, tiếp cận những giá trị chung, giá trị toàn cầu.
Việt Nam nỗ lực cho nhân quyền cả trong đối nội lẫn đối ngoại
PV: Năm 2013, với 184 phiếu thuận trên tổng số 192 phiếu, chúng ta đã trúng cử với số phiếu cao nhất trong số 14 nước thành viên mới và lần đầu tiên trở thành thành viên Hội đồng Nhân quyền Liên Hợp Quốc nhiệm kỳ 2014 - 2016. Theo ông, sự kiện này có ý nghĩa như thế nào với Việt Nam?
Tiến sĩ Cao Đức Thái: Việc Việt Nam ứng cử và trở thành thành viên Hội đồng Nhân quyền, đồng nghĩa với kết quả hình thành cơ chế và tư tưởng bảo đảm quyền con người ở Việt Nam. Tôi còn nhớ, thời kỳ đó, khi Bộ Ngoại giao lấy ý kiến của Viện nghiên cứu quyền con người, tôi nói các anh cứ đề nghị, chúng ta có thể tự tin, bởi Việt Nam đã hình thành cơ chế bảo vệ nhân quyền, trong cơ chế đó có cơ quan chỉ đạo nhân quyền của Chính phủ do một Phó Thủ tướng phụ trách. Cùng với đó, chúng ta còn có một cơ quan khoa học nghiên cứu về quyền con người, đó là Viện Nghiên cứu quyền con người; có cơ quan truyền thông về quyền con người.
Xét về mặt văn kiện, Việt Nam hiện nay đã có đầy đủ các văn kiện quốc tế về quyền con người nên chúng ta hoàn toàn tự tin khi tham gia vào Hội đồng Nhân quyền. Bởi Việt Nam đã hình thành một cơ chế bao gồm cả luật pháp lẫn cơ quan, tổ chức.
PV: Năm 2022 này, Việt Nam đang ứng cử cho vị trí thành viên của Hội đồng Nhân quyền Liên Hợp Quốc nhiệm kỳ 2023 - 2025. Ông đánh giá thế nào về khả năng trúng cử của Việt Nam?
Tiến sĩ Cao Đức Thái: Việc Việt Nam ứng cử và có khả năng thắng cử là hai yếu tố khác nhau. Tôi muốn khẳng định, Việt Nam ứng cử là một chủ trương đúng đắn, như trên tôi đã phân tích, Việt Nam tự tin, Việt Nam đang phấn đấu, nỗ lực về vấn đề nhân quyền, không phải chỉ trong đối nội mà cả trong đối ngoại.
Còn Việt Nam có khả năng thắng cử hay không, tôi không thể khẳng định là có hay không. Bởi trong các thành viên của Liên Hợp Quốc, có người yêu quý Việt Nam, thừa nhận nhân quyền Việt Nam; nhưng cũng có không ít những kẻ xấu chống phá Việt Nam. Dù chúng ta có làm tốt, thậm chí càng tốt họ càng bỏ phiếu phản đối chúng ta. Điều quan trọng là chúng ta xem vấn đề nhân quyền là một mục đích tự thân để phấn đấu, còn cộng đồng quốc tế đánh giá hay không, điều đó là một vấn đề khác.
PV: Xin cảm ơn ông.
Long Phạm T.H / Theo Thời Đại