Thực hiện đúng phương châm “sẵn sàng làm bạn với tất cả các nước dân chủ” của Chủ tịch Hồ Chí Minh đưa ra ngay từ những ngày đầu lập nước, Việt Nam ngày nay đã thực sự “là bạn, là đối tác tin cậy của tất cả các nước và là thành viên có trách nhiệm của cộng đồng quốc tế.”
Đối ngoại “đi trước, mở đường” cho phát triển đất nước
Trong các cuộc kháng chiến giành độc lập dân tộc, thống nhất đất nước, đối ngoại Việt Nam đã đi tiên phong bảo vệ chính quyền cách mạng non trẻ, kháng chiến cứu quốc. Trong đó, nổi bật nhất là đã tranh thủ được sự ủng hộ của bạn bè quốc tế, thúc đẩy việc ký kết Hiệp định Paris năm 1973, tạo tiền đề có tính chiến lược, tiên quyết để giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước.
Bước vào giai đoạn tái thiết khôi phục đất nước (1975-1986), mặt trận đối ngoại đã có đóng góp lớn vào công cuộc khôi phục đất nước sau chiến tranh và đấu tranh phá thế bao vây cấm vận. Tháng 9/1977, Việt Nam chính thức gia nhập Liên hợp quốc. Tiếp đó là những nỗ lực rất lớn để bình thường hóa quan hệ với các nước lớn và các nước trong khu vực. Đại hội Đảng lần thứ VI là thời điểm lịch sử, mở ra một giai đoạn mới, với đường lối đối ngoại “rộng mở”, nhiệm vụ hàng đầu là “tranh thủ điều kiện quốc tế thuận lợi cho sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc.”
Hiệp định Paris (27/1/1973) – Bước ngoặt mới trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước của dân tộc Việt Nam
Ngày nay, trong tiến trình hội nhập quốc tế, Ngoại giao Việt Nam có sứ mệnh mới, góp phần quan trọng tạo dựng và giữ vững môi trường hòa bình, ổn định, bảo vệ vững chắc Tổ quốc; đồng thời linh hoạt, sáng tạo tìm ra phương cách mới thúc đẩy hợp tác quốc tế, tạo mọi điều kiện quốc tế thuận lợi để xây dựng và phát triển đất nước, góp phần quan trọng nâng cao vị thế và gia tăng thế lực cho đất nước.
Từ chỗ bị bao vây về kinh tế, cô lập về chính trị và chỉ có quan hệ với các nước XHCN, đến nay Việt Nam đã thiết lập quan hệ ngoại giao với 189/193 quốc gia thuộc tất cả các châu lục, trong đó, có 17 đối tác chiến lược (3 đối tác chiến lược toàn diện), 13 đối tác toàn diện; có quan hệ kinh tế thương mại với hơn 230 nước và vùng lãnh thổ. Đặc biệt, chúng ta đã xây dựng được khuôn khổ quan hệ Đối tác chiến lược và Đối tác toàn diện với tất cả cả nước lớn, trong đó có 5 nước thành viên thường trực Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc.
Việt Nam đã tham gia hơn 500 hiệp định song phương và đa phương trên nhiều lĩnh vực. Đặc biệt Việt Nam đã phê chuẩn và triển khai có hiệu quả Hiệp định thương mại tự do Việt Nam và Liên minh châu Âu (EVFTA); tham gia ký Hiệp định Đối tác Kinh tế toàn diện khu vực (RCEP). Đã có 71 nước công nhận Việt Nam là một nền kinh tế thị trường.
Đối ngoại cũng đã góp phần hiệu quả vào bảo vệ vững chắc chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc. Việt Nam đã xây dựng đường biên giới trên bộ hòa bình, hữu nghị và phát triển với Lào, Campuchia và Trung Quốc. Trước những phức tạp ở Biển Đông, Việt Nam đã đánh giá đúng tình hình, đấu tranh, xử lý kịp thời, tỉnh táo, sáng suốt, kiên quyết, kiên trì bảo vệ vững chắc chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, các quyền và lợi ích chính đáng của Việt Nam trên biển.
Không chỉ trở thành lực lượng đi trước mở đường trong từng bước hội nhập kinh tế quốc tế, công tác đối ngoại còn góp phần quan trọng bảo đảm an sinh xã hội, an toàn sức khỏe cho nhân dân, thể hiện rõ nét trong suốt thời gian diễn ra dịch COVID-19 vừa qua. Từ khi đại dịch COVID-19 bùng phát và diễn biến phức tạp trên thế giới và trong nước, ngành Ngoại giao đã tiên phong cùng các Bộ, ngành đẩy mạnh “ngoại giao y tế,” “ngoại giao vaccine”, tranh thủ sự hỗ trợ kịp thời, hiệu quả của cộng đồng quốc tế về vaccine, thiết bị y tế và thuốc điều trị, chung tay cùng cả nước phòng, chống dịch bệnh. Cùng với đó, công tác đối với người Việt Nam ở nước ngoài và bảo hộ công dân Việt Nam đã được triển khai kịp thời; hỗ trợ hiệu quả kiều bào ta ở nước ngoài vượt qua khó khăn do đại dịch COVID-19.
Khẳng định vị thế, nâng tầm vai trò quốc gia
Với thế và lực mới, Việt Nam đã tham gia và đóng góp tích cực ở hầu hết các tổ chức, diễn đàn quốc tế quan trọng, đảm nhiệm thành công nhiều trọng trách.
Việt Nam là thành viên tích cực của trên 70 tổ chức khu vực và quốc tế, đóng vai trò quan trọng trong ASEAN và nhiều cơ quan quan trọng của Liên hợp quốc. Việt Nam đã, đang đảm nhiệm thành công vai trò Chủ tịch ASEAN năm 1998, 2010 và 2020 và Ủy viên không thường trực Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc nhiệm kỳ 2008-2009 và 2020-2021.
Việt Nam cũng thể hiện xuất sắc cương vị nước chủ nhà của nhiều hội nghị quốc tế quan trọng như Hội nghị Thượng đỉnh các nước nói tiếng Pháp (Francophonie) lần thứ 7 năm 1997, Hội nghị Thượng đỉnh Á-Âu (ASEM) lần thứ 5 năm 2005, Hội nghị Cấp cao Diễn đàn Hợp tác Kinh tế châu Á-Thái Bình Dương (APEC) năm 2006 và 2017, Đại hội đồng Liên minh Nghị viện Thế giới lần thứ 132 (IPU-132) năm 2015, Diễn đàn Kinh tế Thế giới về ASEAN (WEF ASEAN) năm 2018 và tổ chức thành công Thượng đỉnh Mỹ-Triều lần 2 năm 2019.
Việt Nam tiếp nhận vai trò Chủ tịch ASEAN năm 2020. (Ảnh: Thống Nhất/TTXVN)
Đặc biệt, sau khi Đại hội Đảng lần thứ XIII thông qua đường lối đối ngoại giai đoạn mới, Việt Nam đã nhận được nhiều tin vui. Bên cạnh việc tiếp tục đảm nhiệm vai trò Ủy viên không thường trực Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc, Việt Nam đã trúng cử, chỉ định, tham gia rất nhiều cơ chế, diễn đàn của Liên hợp quốc.
Điển hình là Việt Nam tái đắc cử vị trí thành viên Ủy ban Luật pháp Quốc tế của Liên hợp quốc nhiệm kỳ 2023-2027, trúng cử vào Hội đồng chấp hành UNESCO nhiệm kỳ 2021-2025, được bầu vào Hội đồng Thống đốc Cơ quan năng lượng nguyên tử quốc tế (IAEA), trúng cử thành viên Hội đồng Khai thác Bưu chính của Liên minh Bưu chính thế giới.
Bên cạnh đó, quan hệ kinh tế đối ngoại của Việt Nam ngày càng rộng mở, hiệu quả, phục vụ đắc lực cho công cuộc phát triển kinh tế-xã hội trong nước. Việt Nam đã trở thành mắt xích quan trọng trong nhiều liên kết kinh tế thông qua việc ký các hiệp định thương mại tự do, qua đó tạo ra những động lực to lớn cho phát triển.
Quỹ Tiền tệ quốc tế (IMF) đánh giá Việt Nam nằm trong số 20 nền kinh tế có đóng góp lớn nhất vào tăng trưởng toàn cầu năm 2019. Dù dịch COVID-19 đang gây ra suy thoái kinh tế toàn cầu, nhưng năm 2020 Việt Nam vẫn tăng trưởng dương. Hội nhập quốc tế về chính trị-an ninh-quốc phòng, xã hội-văn hóa và các lĩnh vực khác ngày càng sâu sắc.
Đây thực sự là những dấu ấn hết sức quan trọng, khẳng định vị thế, vai trò của Việt Nam trên trường quốc tế, đồng thời đem lại những nguồn lực, là cơ sở để nâng cao kinh nghiệm, thúc đẩy phát triển kinh tế-xã hội trong nước giai đoạn mới. Cùng với đó, đem lại cơ hội thúc đẩy mối quan hệ song phương của Việt Nam với các nước có vai trò chủ chốt trên thế giới cũng như trong khu vực, đóng góp vào hòa bình, phát triển chung của nhân loại.
Việt Nam trúng cử thành viên Hội đồng Chấp hành UNESCO nhiệm kỳ 2021-2025. (Ảnh: Thu Hà/TTXVN)
Thực hiện đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, đa phương hóa, đa dạng hóa
Có thể thấy, công tác đối ngoại đã góp phần quan trọng thay đổi vị thế của đất nước và từng bước làm rạng danh Tổ quốc. Trong các bài phát biểu quan trọng của mình, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã nhiều lần khẳng định: “Với tất cả sự khiêm tốn, chúng ta vẫn có thể nói rằng: Đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay.”
Trong định hướng phát triển đất nước giai đoạn 2021-2030 về lĩnh vực đối ngoại, Đảng ta khẳng định: “Tiếp tục thực hiện đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, đa phương hóa, đa dạng hóa; chủ động và tích cực hội nhập quốc tế toàn diện, sâu rộng, có hiệu quả; giữ vững môi trường hòa bình, ổn định, không ngừng nâng cao vị thế, uy tín quốc tế của Việt Nam.”
Những năm tới, tình hình thế giới và khu vực được dự báo sẽ nhiều biến động. Trong bối cảnh đó, để có thể “nhìn trước” những tiềm năng và thách thức, cùng cả hệ thống chính trị và toàn dân thực hiện có hiệu quả các nhiệm vụ chính trị đặt ra, Đại hội Đảng XIII xác định các nhiệm vụ đối ngoại thời gian tới gồm:
Tiếp tục phát huy vai trò tiên phong của đối ngoại trong việc tạo lập và giữ môi trường hòa bình, ổn định, huy động các nguồn lực bên ngoài để phát triển đất nước, nâng cao vị thế và uy tín đất nước.
Bảo đảm cao nhất lợi ích quốc gia-dân tộc trên cơ sở các nguyên tắc cơ bản của Hiến chương Liên hợp quốc và luật pháp quốc tế, bình đẳng, hợp tác, cùng có lợi”; nhấn mạnh đây là mục tiêu tối thượng, xuyên suốt, bất biến.
Chủ động, tích cực hội nhập quốc tế, giải quyết tốt mối quan hệ giữa độc lập, tự chủ và hội nhập quốc tế; thúc đẩy hội nhập quốc tế toàn diện, sâu rộng, linh hoạt, hiệu quả vì lợi ích quốc gia-dân tộc, bảo đảm độc lập, tự chủ, chủ quyền quốc gia.
Tiếp tục đưa các mối quan hệ đối ngoại song phương đi vào chiều sâu, tạo thế đan xen lợi ích, “tăng độ tin cậy”; đối ngoại đa phương “chủ động tham gia, tích cực đóng góp, nâng cao vai trò của Việt Nam trong xây dựng, định hình các thể chế đa phương và trật tự chính trị, kinh tế quốc tế.”
Đối ngoại cùng quốc phòng, an ninh và cả hệ thống chính trị phối hợp, đóng góp vào bảo đảm môi trường hòa bình, ổn định của đất nước, giữ nước từ sớm, từ xa; tiếp tục thúc đẩy giải quyết các vấn đề trên biển, an ninh, an toàn hàng hải, hàng không trên cơ sở luật pháp quốc tế, nhất là Công ước của Liên hợp quốc về Luật Biển năm 1982. Củng cố đường biên giới hòa bình, an ninh, hợp tác và phát triển; giải quyết các vấn đề còn tồn tại liên quan đến đường biên giới trên bộ với các nước láng giềng.
Hỗ trợ để người Việt Nam ở nước ngoài có địa vị, phát triển kinh tế và đời sống, hòa nhập xã hội sở tại. Nâng cao hiệu quả công tác bảo hộ công dân, quản lý lao động, du học sinh… Tạo điều kiện để đồng bào giữ gìn tiếng Việt, bản sắc văn hóa dân tộc, nâng cao lòng tự hào, tự tôn dân tộc. Làm tốt công tác thông tin tình hình trong nước, giúp đồng bào hướng về Tổ quốc, nhận thức và hành động phù hợp với lợi ích quốc gia-dân tộc, có chính sách thu hút nguồn lực của người Việt Nam ở nước ngoài đóng góp tích cực cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Cán bộ, chiến sỹ Bệnh viện dã chiến cấp 2 số 2 chào tạm biệt người thân và đồng đội lên đường làm nhiệm vụ tại Phái bộ Nam Sudan. (Ảnh: Dương Giang/TTXVN)
Định hướng trên 3 trụ cột là đối ngoại Đảng, ngoại giao Nhà nước và đối ngoại nhân dân
Xây dựng nền ngoại giao toàn diện, hiện đại với ba trụ cột là đối ngoại Đảng, ngoại giao Nhà nước và đối ngoại nhân dân, phối hợp thống nhất, chặt chẽ, đồng bộ ba trụ cột đối ngoại, các cơ quan, lực lượng đối ngoại nhằm tạo nên sức mạnh tổng hợp; tăng cường cơ chế phối hợp chặt chẽ giữa các kênh và các cơ quan đối ngoại, đẩy mạnh, nâng cao hiệu quả công tác đối ngoại và hội nhập quốc tế.
Trưởng ban Đối ngoại Trung ương Lê Hoài Trung cho rằng: Đối ngoại Đảng trong thời gian vừa qua đã có nhiều đóng góp trong tổng thể của 3 trụ cột đối ngoại: Đối ngoại Đảng, ngoại giao Nhà nước và đối ngoại Nhân dân. Trong đó, đối ngoại Đảng đóng vai như cơ sở nền tảng về mặt chính trị, tranh thủ sự ủng hộ của các chính đảng, các tổ chức trên thế giới, đóng góp trực tiếp vào các vấn đề; tranh thủ các nguồn lực bên ngoài và tranh thủ sự ủng hộ quốc tế.
Vì vậy, từ rất sớm, Đảng ta đã coi trọng vấn đề liên quan đến công tác đối ngoại Đảng. Và trên thực tế, đối ngoại Đảng đã bắt đầu từ rất sớm, từ trước khi chúng ta giành được độc lập và thành lập ra Nhà nước Việt Nam. Đảng ta đã có nhiều văn bản quan trọng nhằm đề ra định hướng và các biện pháp cụ thể liên quan đến công tác đối ngoại Đảng.
Mới đây nhất, năm 2019, Bộ Chính trị ban hành Chỉ thị số 32-CT/TW về “Tăng cường và nâng cao hiệu quả quan hệ đối ngoại đảng trong tình hình mới”; do đó, trong thời gian tới, trọng tâm công tác đối ngoại Đảng là thực hiện Chỉ thị số 32-CT/TW.
Trong đó, Chỉ thị số 32-CT/TW đã đề ra những định hướng rất quan trọng. Thứ nhất, quán triệt đường lối và làm tốt công tác tham mưu chiến lược để luôn luôn nắm sát tình hình, đồng thời đưa ra đường lối đối ngoại mới phù hợp.
Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XIII. (Ảnh: TTXVN)
Thứ hai, định hướng nhằm mở rộng quan hệ đối ngoại Đảng, trước hết là với các nước láng giềng để tạo nền tảng chính trị và định hướng cho quan hệ các mặt; tạo quan hệ đối ngoại Đảng với các chính đảng khác, các đảng cầm quyền cũng như các đảng tham gia đời sống chính trị ở các nước, để tranh thủ sự ủng hộ về mặt chính trị, tạo thêm sự hỗ trợ về mặt chính trị cho quan hệ nhà nước cũng như đối ngoại nhân dân.
Thứ ba, tranh thủ hơn nữa về hợp tác kinh tế, văn hóa, xã hội trong quan hệ Đảng; giúp cho các kênh khác tranh thủ những vấn đề hợp tác này. Cùng với đó, Chỉ thị số 32-CT/TW cũng nhấn mạnh nhiệm vụ nâng cao chất lượng của đội ngũ làm công tác đối ngoại đảng.
Theo Bộ trưởng Bộ Ngoại giao Bùi Thanh Sơn, Đại hội XIII đề ra chủ trương “xây dựng nền ngoại giao toàn diện, hiện đại với ba trụ cột là đối ngoại đảng, ngoại giao nhà nước và đối ngoại nhân dân” . Chủ trương mới này phản ánh sự trưởng thành của nền ngoại giao cách mạng Việt Nam do Chủ tịch Hồ Chí Minh sáng lập, đồng thời cũng là một yêu cầu mới vừa mang tính chiến lược, lâu dài, vừa mang tính cấp thiết đối với đối ngoại và ngành ngoại giao trong bối cảnh mới.
Tính toàn diện của nền ngoại giao Việt Nam thể hiện ở chủ thể thực hiện đối ngoại bao gồm cả hệ thống chính trị, các tổ chức xã hội, doanh nghiệp và nhân dân; trên tất cả các lĩnh vực chính trị, quốc phòng, an ninh, kinh tế-xã hội; với tất cả đối tác, địa bàn, khu vực, trọng tâm là đẩy mạnh và làm sâu sắc hơn quan hệ với các nước láng giềng, đối tác chiến lược, đối tác toàn diện, đối tác quan trọng và bạn bè truyền thống, chủ động tham gia và phát huy vai trò tại các cơ chế đa phương quan trọng có tầm chiến lược.
Tính hiện đại thể hiện ở tính chất nền ngoại giao Việt Nam là sự kết hợp hài hòa giữa truyền thống, bản sắc ngoại giao của dân tộc, tư tưởng ngoại giao Hồ Chí Minh, đường lối đối ngoại của Đảng qua các thời kỳ và tinh hoa ngoại giao thời đại; ở vận hành nền ngoại giao trong khuôn khổ thể chế ngày càng hoàn thiện, gắn kết chặt chẽ, nhuần nhuyễn giữa đối ngoại đảng, ngoại giao nhà nước và đối ngoại nhân dân; ở tổ chức bộ máy tinh gọn, hiệu quả với phương thức hoạt động khoa học, chuẩn hóa và số hóa, có năng lực đổi mới, sáng tạo và chủ động thích ứng với chuyển biến mau lẹ của tình hình.
Nền ngoại giao Việt Nam với ba trụ cột là đối ngoại đảng, ngoại giao nhà nước và đối ngoại nhân dân luôn đặt dưới lãnh đạo, chỉ đạo thống nhất của Đảng và sự quản lý tập trung của Nhà nước. Dù có vị trí, chức năng, vai trò và lợi thế khác nhau, nhưng ba trụ cột đối ngoại có quan hệ rất chặt chẽ và bổ trợ lẫn nhau bởi cùng thực hiện đường lối đối ngoại của Đảng với mục tiêu chung vì lợi ích quốc gia- dân tộc. Điều này phản ánh bản chất nền ngoại giao Việt Nam là sự tổng hòa, thống nhất giữa tính đảng, tính quốc gia- dân tộc và tính dân chủ-nhân dân. Việc triển khai đồng bộ, phối hợp chặt chẽ và nhuần nhuyễn đối ngoại đảng, ngoại giao nhà nước và đối ngoại nhân dân sẽ phát huy thế mạnh của từng trụ cột đối ngoại, tạo nên sức mạnh tổng hợp của nền ngoại giao Việt Nam. Đây vừa là truyền thống và bài học quý báu, vừa là nghệ thuật “tập hợp lực lượng” độc đáo của đối ngoại cách mạng Việt Nam cần tiếp tục gìn giữ và phát huy trong giai đoạn mới./.
Q.Hoa t.h / TTXVN