- Cơ duyên nào mà ông lại chọn Việt Nam để gắn bó cuộc đời mình?
Tôi tốt nghiệp khoa Tiếng Việt, Trường Đại học Ngoại ngữ Hàn Quốc, lúc đó Việt Nam và Hàn Quốc đang chuẩn bị thiết lập quan hệ ngoại giao ở cấp cao nhất. Chính vì thế trong suy nghĩ của mình, tôi luôn mong ước được sang Việt Nam để trải nghiệm những điều đã học và thực hiện những ước mơ của mình. Năm 1993, tôi là một trong số ít ỏi những người Hàn Quốc đến Việt Nam làm nghiên cứu sinh. Năm 2001 tôi bảo vệ luận án Tiến sĩ chuyên ngành Dân tộc học tại Khoa Lịch sử, Trường ĐH KHXH&NV - Đại học Quốc gia Hà Nội, và giảng dạy tại trường.
Tôi đã có dịp thực hiện dự án tài trợ tại các tỉnh từ phía Bắc đến Nam như: Thái nguyên, Phú Thọ, Hải Dương, Tuyên Quang. Bình Định, Huế, TP Hồ Chí Minh, Vĩnh Long… Đó là những cơ hội để tôi được gần gũi, gắn kết với cộng đồng người dân Việt. Tuy tiếng nói và phong tục tập quán vùng miền có đôi chút khác nhau nhưng tựu chung lại là tinh thần cần cù lao động, sáng tạo và rất mến khách của người dân. Tôi đã có những khám phá thú vị và càng ngày càng gắn bó với Việt nam. Gần 30 năm sống ở Việt Nam, tôi ngày càng bị cuốn hút. Tôi yêu Việt Nam, không ngừng nghiên cứu so sánh về lịch sử, văn hoá…của hai nước và dần dần tôi đã coi Việt Nam là quê hương thứ hai của mình.
- Gần 30 năm sinh sống và làm việc tại Việt Nam, ông cảm nhận đất nước Việt Nam thay đổi như thế nào?
Tôi thấy Việt Nam đã thay đổi rất nhiều. Việt Nam mở cửa, năng động và phát triển. Vị trí và tiếng nói của Việt Nam đã có ảnh hưởng không chỉ trong khu vực mà còn trên trường quốc tế. Càng ngày càng có nhiều doanh nghiệp nước ngoài đầu tư vào Việt nam trong đó có các doanh nghiệp Hàn Quốc.
Không chỉ kinh tế tăng trưởng, mà các lĩnh vực y tế, giáo dục, văn hoá, giải trí cũng phát triển vượt bậc. Mọi người dân sống với nhau bình đẳng, dân chủ, tự do phát huy năng lực của mình. Đặc biệt là vai trò của người phụ nữ trong đời sống xã hội rất cao. Điều mà tôi ấn tượng nữa đó là có nhiều người nước ngoài được giữ cương vị làm hiệu trưởng, phó hiệu trưởng các trường Đại học lớn ở Việt Nam, trong đó có tôi, điều mà đất nước Hàn Quốc chưa bao giờ có tiền lệ.
Điều khiến tôi yêu Việt Nam nhất chính là con người Việt Nam. Người Việt Nam có tính cộng đồng cao, thân thiện, cởi mở và dễ mến. Khu căn hộ nơi tôi sống ở Đình Thôn, Mỹ Đình, Hà Nội giống như một gia đình. Mỗi khi nhìn thấy tôi đi dạo dưới sân chung cư hay đi làm về, những nhân viên dọn dẹp vệ sinh hay bảo vệ đều nở nụ cười chào hỏi “Em chào thầy”. Điều này khiến tôi rất vui, mọi người coi tôi như người Việt, rất tự nhiên.
Tôi đã đi khắp mọi miền đất nước Việt Nam, đến đâu tôi cũng được mọi người chào đón thân thiện. Đó là điểm tuyệt vời của văn hóa Việt Nam và là điều khác biệt mang giá trị nhân văn so với các nước khác. Không phải chỉ riêng tôi mà cộng đồng người Hàn cũng có cảm nghĩ như vậy.
TS Sim Sang Joon (Thứ 5 bên trái) , Giám đốc Trung tâm Giao lưu văn hóa Việt - Hàn bàn giao 4 hệ thống nước sạch thành nước uống tinh khiết cho 4 trường mầm non và tiểu học huyện Quốc Oai và Hoài Đức (Hà Nội) vào tháng 11/2021.. |
-Yêu mến Việt Nam, ông sẽ tiếp tục gắn bó với Việt Nam?
Những kỷ niệm, trải nghiệm đẹp trong cuộc đời tôi được hình thành ở Việt Nam, thì làm sao tôi có thể quyết định một ngày không gắn kết với Việt Nam được?
Sự gắn bó của tôi ở Việt Nam sẽ tiếp tục, vì tôi đến Việt Nam không phải chỉ là một vị khách quá cảnh. Trong trái tim và tâm trí của tôi, tình yêu đất nước Việt Nam không khác gì với tình yêu đất nước Hàn Quốc. Chính vì yêu mến Việt Nam, tôi nguyện mãi là người giới thiệu văn hóa Việt Nam với Hàn Quốc để góp phần tăng cường mối quan hệ giữa hai nước ngày càng bền vững.
-Xin cảm ơn ông và chúc ông sức khỏe để thực hiện tiếp ý nguyện của mình!
Tên tuổi TS Sim Sang Joon từ lâu đã trở nên quen thuộc với nhiều người dân Việt Nam. Hiện ông là Giám đốc Trung tâm Giao lưu văn hóa Việt - Hàn và Phó hiệu trưởng danh dự, kiêm chủ nhiệm khoa tiếng Hàn, Trường Đại học Việt Bắc (Thái Nguyên). TS Sim Sang Joon không chỉ có công lao trong việc kêu gọi các nguồn tài trợ hàng triệu đô la để giúp cho Việt nam phát triển cộng đồng, xóa đói giảm nghèo tại các vùng sâu vùng xa mà còn luôn say sưa nghiên cứu về Việt Nam. Các bài nghiên cứu của ông được đăng tải trên các báo của Việt Nam, của Hàn Quốc cũng như các bài giảng của ông tại các công ty Hàn Quốc đã làm cho mọi người hiểu nhau hơn về văn hóa, phong tục tập quán …của nhau. Chính vì vậy ông đã được được đánh giá là một học giả về Việt Nam học, là người nối nhịp cầu góp phần tăng cường mối quan hệ giữa hai nước Việt - Hàn. Chủ đề Việt Nam luôn là trọng tâm trong các câu chuyện của ông. Ông biểu lộ tình cảm với Việt Nam bằng một sự chân thành đặc biệt, như thể đó là một phần không thể tách rời trong tâm thế của mình. |
Q.Hoa t.h / Thoidai