Trong lịch sử bang giao của dân tộc, các hoạt động đối ngoại nhân dân đã được thực hiện từ rất sớm với các hình thái giao lưu chủ yếu tập trung vào lĩnh vực tôn giáo, văn hóa, giao thương,... Thuở các nhà nước còn chưa thành lập cho đến khi các triều đại phát triển phồn vinh, các hoạt động mang tính chất giao lưu giữa nhân dân Việt Nam với nhân dân các nước láng giềng như Chân Lạp, Xiêm, Trung Quốc cổ đại luôn tạo nên những dấu ấn riêng và góp phần mở mang sự phát triển về kinh tế, văn hoá trong từng thời đại. Nhìn về mặt địa lý, Việt Nam nằm ở vị trí chiến lược của vùng Đông Nam Á, trên đầu mối các tuyến đường thủy, bộ quan trọng và thuận lợi từ Bắc xuống Nam, từ Đông sang Tây. Vì vậy, cư dân trên lãnh thổ Việt Nam đã sớm có điều kiện tiếp xúc, giao lưu với nhiều nền văn minh lớn của nhân loại, trong đó có văn minh Trung Hoa và Ấn Độ ở phương Đông cổ đại. Có thể nói, đối ngoại nhân dân qua từng thời kỳ có nội hàm phong phú và ngoại diện rộng, song đều nhằm mục tiêu tiếp nhận tinh hoa của nhân loại để xây dựng quốc gia hưng thịnh, độc lập.
Ảnh minh họa
Bắt đầu từ những năm 200 (năm Canh Thìn), nước Nam ta đã có người sang du học và đỗ đạt ở Trung Quốc như Lý Ông Trọng, Lý Tiến, Lý Cầm, Trương Trọng, Khương Công Phụ, Khương Công Phục, Tinh Thiều. Các ông là những người nước Nam thành danh trên đất Bắc và được lịch sử hai nước ghi nhận. Trong đó, hai ông Lý Tiến, Lý Cầm đã ở ngay giữa triều đình nhà Hán mà đòi lấy quyền được ngang hàng, bình đẳng giữa nhân tài nước ta và nhân tài Trung Hoa xưa trong việc tuyển cử làm quan. Không chỉ vậy, người nước Nam còn được nhân dân đất Bắc quý trọng, như Lý Ông Trọng người huyện Từ Liêm (bây giờ là phủ Hoài Đức) sống tại thời Hùng Vương thứ 18 (cuối đời Hùng Duệ Vương). Khi ông mất đã được Tần Thủy Hoàng sai đúc tượng đồng, đặt ở cửa Hàm Dương mà vô cùng kính nể. Hay như hai anh em ông Khương Công Phụ và Khương Công Phục, người xã Sơn Ổi, huyện Yên Định, quận Cửu Chân (tức Thanh Hóa bây giờ) đều đỗ đại khoa trong kỳ thi tuyển nhân tài của nhà Đường vào năm Canh Tý 780. Riêng ông Khương Công Phụ là người Việt duy nhất đỗ trạng nguyên rồi làm tể tướng Trung Hoa (nhà Đại Đường). Ông có tài văn hay, chữ tốt, bài Bạch Vân Chiếu xuân hải (Mây trắng chiếu bể xuân) được đời Đường tôn làm kiệt tác.
Các hoạt động đối ngoại nhân dân còn được các sứ thần nước ta vận dụng linh hoạt, chủ động trong các chuyến đi sứ. Có thể thấy, giao lưu nhân dân thời kỳ này mang một số dấu ấn, tiêu biểu là hình thái giao lưu học hỏi các nghề truyền thống, phục vụ đời sống nông nghiệp, lúa nước, phát triển kinh tế. Trạng Bùng Phùng Khắc Khoan trong khi đi sứ sang nhà Minh cũng đã chủ động giao thiệp với nhân dân địa phương, học các nghề dệt the lượt mỏng và đem hạt giống ngô, vừng về dạy nhân dân nước Nam ta trồng trọt. Nhờ đó, ông cũng được tôn là ông tổ của các nghề này. Trên đường đi sứ, ông luôn tìm hiểu cách làm ăn của người dân ở mỗi địa phương đi qua để giúp cho dân mình khi trở về nước. Nhờ quan sát và hỏi han, ông đã biết đến loại “ngọc mễ” (tức gạo ngọc) rồi tìm cách đem về nước; học được kỹ thuật kéo tơ từ kén tằm sao cho nhỏ, kĩ thuật làm sợi tơ thêm bóng, mềm và mượt của các vùng dệt lụa ở Trung Quốc để về dạy lại người dân nước mình.
Đó còn là câu chuyện về sứ bộ Phan Thanh Giản được vua Tự Đức cử sang Pháp năm 1863 để điều đình xin chuộc lại 3 tỉnh miền Đông. Trong thời gian ở Pháp, Chánh sứ Phan Thanh Giản đã mời đại sứ nước Áo và Thổ Nhĩ Kỳ đến để tìm hiểu về các loại thuế hàng hoá ở hai nước này với hi vọng làm cho nền tài chính đất nước thoát khỏi khó khăn. Cũng chính trong dịp đi sứ này, Phó sứ Phạm Phú Thứ đã học hỏi người dân Ai Cập cách lấy nước tưới ruộng bằng xe trâu và đã phổ biến ở miền Trung khi ông về nước, mọi người đều làm theo vì thấy rất có lợi so với dùng sức người. Không chỉ vậy, sứ thần Việt Nam cũng để lại nhiều tình cảm tốt đẹp với sứ thần các nước lân bang. Ở thời Hiến Tông, Mạc Đĩnh Chi - lưỡng quốc Trạng Nguyên làm Nhập nội hành khiển Hữu ty lang trung rồi thăng Tả ty lang trung. Trong thời gian ở Yên Kinh, ông kết thân với sứ thần Cao Ly. Mến mộ tài năng của Mạc Đĩnh Chi, vị sứ thần này mời ông sang Cao Ly chơi và gả cháu gái cho.
Đối ngoại nhân dân trong lịch sử dân tộc không chỉ được thể hiện thông qua những mối quan hệ hoà hảo đó mà càng được khắc họa thông qua cách người dân nước Nam ứng xử với kẻ thù xâm lược. Nhìn lại lịch sử hàng nghìn năm dựng nước và giữ nước, chính tư tưởng hòa hiếu, “tương thân tương ái”, lối ứng xử đậm chất nhân văn, bác ái, nước Nam ta đã mau chóng xóa bỏ thù hận, “mở đường hiếu sinh” để quân giặc về nước, giúp nối lại hoà hiếu bang giao giữa hai dân tộc. Đại thi hào Nguyễn Trãi đã từng nói “mưu phạt tâm công”, “lấy đại nghĩa thắng hung tàn, lấy chí nhân thay cường bạo”, đây chính là nền tảng đầy tính nhân văn để hai nước xây dựng mối quan hệ hòa hiếu, hữu nghị và cùng phát triển. Lịch sử đã chứng kiến những hành động cao cả của những người con đất Việt đối với kẻ thù xâm lược, như: vua Trần bảo đảm an toàn cho quân Nguyên; Lê Thái Tổ, Nguyễn Trãi cung cấp lương thảo, phương tiện cho quân Minh;... Với những hành động trên, dân tộc ta đã thể hiện nguyện vọng thiết tha, cháy bỏng về xây dựng hòa bình, hữu nghị và ổn định với các quốc gia, dân tộc trên thế giới, nhất là đối với các nước láng giềng lân bang.
Bước sang thế kỷ XX, trong bối cảnh đất nước trải qua hai cuộc kháng chiến trường kỳ chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, đối ngoại nhân dân đã kế thừa tinh hoa truyền thống dân tộc, tiếp tục phát huy vai trò trong công cuộc đấu tranh giành lại độc lập, tự do cho Tổ quốc.
Với chủ trương đối ngoại rộng mở và phương châm “thêm bạn bớt thù”, phải làm cho nước mình ít kẻ thù hơn hết và nhiều bạn đồng minh hơn hết, có thể nói, Chủ tịch Hồ Chí Minh là người đặt nền móng cho công tác đối ngoại nhân dân. Người đã làm công tác đối ngoại nhân dân từ khi ra đi tìm đường cứu nước, trực tiếp chỉ đạo, định hướng và triển khai công tác này, đưa đối ngoại nhân dân trở thành một mặt trận, đóng góp to lớn vào thắng lợi của sự nghiệp giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước.
Chủ tịch Hồ Chí Minh tiếp đoàn đại biểu Hội Trung – Việt hữu hảo do đồng chí Dương Tư Phong, Ủy viên Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc, Chủ tịch Hội Trung – Việt hữu hảo dẫn đầu
Điểm nhấn của các hoạt động đối ngoại nhân dân thời kỳ này là “lấy ngòi bút thay giáp binh”, dùng chính nghĩa để cảm hóa lòng người, giương ngọn cờ chung vì sự nghiệp giải phóng các dân tộc bị áp bức trên thế giới để tranh thủ sự ủng hộ cho cuộc đấu tranh của nhân dân Việt Nam. Trong thời gian hoạt động tại Pháp, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã vận dụng linh hoạt, khéo léo phương thức đối ngoại nhân dân bằng cách viết báo hoặc truyền tải nội dung thông qua các buổi diễn thuyết tại các cuộc biểu tình và diễn đàn quốc tế. Thậm chí, Người đã đẩy mạnh vận động quốc tế bằng cách rải truyền đơn tới những người cùng cảnh ngộ trên thế giới về nỗi thống khổ của những người Việt Nam đang bị áp bức. Nhờ hoạt động tuyên truyền tài tình đó, nhân dân Việt Nam đã giành được sự đồng cảm và ủng hộ của đông đảo nhân dân tiến bộ trên toàn thế giới.
Những ngày cuối tháng 12 năm 1920, Đảng Xã hội Pháp tổ chức Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XVIII ở thành phố Tours, Người tham dự Đại hội với tư cách là đại biểu Đông Dương. Đây là lần đầu tiên có một người Việt Nam tham gia Đại hội đại biểu của một chính đảng Pháp và là người bản xứ duy nhất trong số đại biểu các nước thuộc địa có mặt trong Đại hội. Tại đây, Người tuyên bố đoàn kết với giai cấp vô sản và các dân tộc bị áp bức trên thế giới, gắn cách mạng ở thuộc địa với cách mạng ở chính quốc. Tư tưởng gắn cuộc đấu tranh của nhân dân Việt Nam với cuộc đấu tranh của nhân dân lao động Pháp là một tư tưởng lớn và tiến bộ thời bấy giờ. Sau đó tháng 10/1921, Người cùng một số bạn bè quốc tế đến từ Algeria, Maroc, Tunisia... đã tham gia sáng lập Hội Liên hiệp thuộc địa, tập hợp và đoàn kết với nhiều nhân dân ưu tú của các thuộc địa Pháp để đấu tranh.
Đồng chí Nguyễn Ái Quốc phát biểu tại Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XVIII Đảng xã hội Pháp
Trong thời kỳ kháng chiến chống đế quốc Mỹ, Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng đã rất chú trọng đến việc tranh thủ tình cảm hữu nghị, sự ủng hộ và giúp đỡ của nhân dân các nước đối với cuộc đấu tranh giành độc lập của nhân dân Việt Nam, xây dựng quan hệ hữu nghị giữa nhân dân Việt Nam với nhân dân các nước. Đồng thời, Đảng ta cũng thể hiện rõ sự ủng hộ đối với cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc của nhân dân các nước thuộc địa ở châu Á, châu Phi và châu Mỹ Latinh. Nhờ đó, các Đoàn đại biểu Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam đều được các nước trong hội nghị đoàn kết Á - Phi, đoàn kết Á - Phi - Mỹ Latinh đồng tình, ủng hộ. Đặc biệt, trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, hơn 200 tổ chức, ủy ban, phong trào đoàn kết được lập ra ở hầu hết các nước trên thế giới với nhiều hoạt động tích cực ủng hộ Việt Nam.
Thực tiễn lịch sử đã chứng minh, hàng triệu người thuộc nhiều nước trên thế giới đã ghi tên tình nguyện sang giúp nhân dân Việt Nam đánh Mỹ và hàng loạt phong trào tại các nước trên thế giới đã diễn ra để ủng hộ Việt Nam. Nổi bật là cuộc tổng bãi công của hơn 5 triệu công nhân thuộc 91 tổ chức công đoàn Nhật Bản trong năm 1965 hay sự kiện “Đêm thức vì hòa bình ở Việt Nam” của Hội Liên hiệp Phụ nữ Pháp,... Giữa lòng Thủ đô Stockholm, xuất hiện các “chiến khu giải phóng” của thanh niên Thụy Điển lấy cờ Mặt trận và bài hát Giải phóng miền Nam làm cờ và bài ca chính thức, lập ra nhóm hành động ủng hộ Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam. Đồng thời, ở Châu Mỹ và Châu Phi xa xôi, các nước Argentina, Uruguay, Costa Rica, Congo, Somali... đã tổ chức giới thiệu cuộc chiến đấu của nhân dân Việt Nam và vang lên những tiếng thét phẫn nộ phản đối chiến tranh.
Đặc biệt, trong bối cảnh Việt Nam bước vào giai đoạn khốc liệt nhất trên chiến trường và phong trảo phản chiến ở Mỹ phát triển rất mạnh mẽ, vào tháng 9/1967, tại thủ đô Bratislava của Tiệp Khắc đã diễn ra cuộc gặp gỡ lịch sử giữa nhân dân tiến bộ hai nước Việt - Mỹ. Đây là cuộc gặp gỡ có ý nghĩa quan trọng, đem đến cho nhân dân Mỹ niềm tin vào cuộc đấu tranh chính nghĩa của nhân dân Việt Nam, và là bước ngoặt trong phong trào hòa bình, đoàn kết, ảnh hưởng sâu sắc tới mối quan hệ giữa Việt Nam và Mỹ.
Đồng chí Nguyễn Thị Bình tham gia biểu tình với nhân dân Anh trên đường phố đòi “Mỹ phải rút khỏi Việt Nam”. |
Trong các hoạt động đối ngoại nhân dân nhằm vận động nhân dân thế giới ủng hộ Việt Nam thời kỳ chống Mỹ cứu nước, bên cạnh nhiều nhà ngoại giao kỳ cựu và có tầm ảnh hưởng, bà Nguyễn Thị Bình là một trong số những người đã để lại hình ảnh ấn tượng nhất trong lòng cộng đồng quốc tế. Trong hơn 5 năm hoạt động cho cuộc hòa đàm ở Paris, bà Nguyễn Thị Bình cùng các đồng chí trong đoàn đàm phán đã dành rất nhiều thời gian đi thăm các nước, dự các hội nghị, mít tinh đoàn kết với Việt Nam. Bất cứ nước nào, tổ chức nào mời là đoàn tranh thủ đi, dù ở Pháp, Ý, châu Phi, hay châu Mỹ, tận dụng mọi cơ hội để tuyên truyền, vận động các tầng lớp nhân dân, các đảng phái chính trị ủng hộ Việt Nam. Đặc biệt nhờ công cuộc vận động của bà Nguyễn Thị Bình, nhân dân Pháp rất có cảm tình với Việt Nam, phong trào đoàn kết giữa Pháp với Việt Nam đã thu hút mọi tầng lớp nhân dân. Một số tầng lớp trí thức lớn tầm cỡ thế giới như nhà văn và triết gia Jean-Paul Sartre, nhà toán học Laurent Schwartz, Chủ tịch Hội Luật gia Dân chủ Quốc tế Joe Norman… đều lên tiếng ủng hộ mạnh mẽ cuộc đấu tranh của Việt Nam. Điều đặc biệt là các nhân vật lớn này có nhiều quan điểm chính trị khác nhau, thậm chí chống đối nhau, nhưng họ đều gặp nhau trong vấn đề Việt Nam.
Có thể thấy, cuộc đấu tranh chính nghĩa của nhân dân Việt Nam đã lay động hàng triệu cá nhân, tổ chức trên thế giới. Họ không tiếc góp sức mình vào công cuộc đấu tranh giành độc lập và tự do của Việt Nam bằng nhiều hình thức khác nhau như: biểu tình, lên tiếng nói phản đối, quyên góp,... thậm chí là hy sinh tính mạng để phản đối cuộc chiến phi nghĩa của đế quốc Mỹ. Tất cả họ dù màu da, tôn giáo, sắc tộc khác nhau nhưng đều chung một lý tưởng, mục đích cao đẹp là ủng hộ cho hòa bình, độc lập, dân chủ và tiến bộ xã hội của Việt Nam nói riêng, thế giới nói chung.
Để nhận được sự tin tưởng và yêu mến của nhân dân thế giới đối với đất nước, con người Việt Nam trong thời kỳ giải phóng dân tộc, đối ngoại nhân dân đã góp phần không nhỏ bằng công cuộc vận động quốc tế, vận động quần chúng các nước. Những tinh hoa của nền đối ngoại nhân dân đã được lãnh đạo Đảng, Nhà nước vận dụng triệt để trong thời kỳ chống Pháp và chống Mỹ cứu nước, mở đường cho cuộc giải phóng dân tộc, sau đó là thống nhất đất nước, tiếp là công cuộc đổi mới và quá trình kiến thiết đất nước, phát triển kinh tế - xã hội sau này.
Long Phạm - Mỹ Lệ