Năm 1975, Việt Nam giải phóng hoàn toàn miền Nam và thống nhất đất nước. Hậu quả của hai cuộc chiến tranh trường kỳ đã để lại nhiều tàn dư đối với nền kinh tế, chính trị và xã hội Việt Nam, đặt nhân dân Việt Nam đứng trước nhiều khó khăn, thử thách trong công cuộc khôi phục, đổi mới và dựng xây Tổ quốc. Lúc bấy giờ, tình hình thế giới và khu vực cũng có nhiều biến động. Sau thắng lợi của Việt Nam (năm 1975), hệ thống xã hội chủ nghĩa mở rộng, phong trào cách mạng thế giới phát triển mạnh. Tuy nhiên, trong những năm cuối thập kỷ 1970, tình hình kinh tế ở các nước xã hội chủ nghĩa đã có dấu hiệu trì trệ và mất ổn định. Sang đến thập kỷ 80, chủ nghĩa xã hội trên thế giới đã lâm vào khủng hoảng sâu sắc. Bối cảnh đó đặt Đảng và Nhà nước Việt Nam đứng trước yêu cầu cấp bách phải tiến hành đổi mới. Đây vừa là nhiệm vụ có ý nghĩa sống còn đối với chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, vừa là vấn đề phù hợp với xu thế chung của thời đại.
Với tinh thần đổi mới toàn diện trên tất cả các ngành và lĩnh vực, công tác đối ngoại của Việt Nam cũng đứng trước yêu cầu phải đổi mới. Có thể nói, đổi mới tư duy đối ngoại xuất phát căn bản từ lợi ích quốc gia - dân tộc, nhằm đưa đất nước vào vị trí có lợi nhất trong dòng chảy chung của thời đại. Bên cạnh đối ngoại Đảng và ngoại giao Nhà nước, những tư duy mới về đối ngoại Nhân dân cũng được thể hiện rõ nét thông qua các kỳ Văn kiện Đại hội Đảng bởi lẽ “đối ngoại nhân dân là nhiệm vụ của cả hệ thống chính trị, của mỗi đảng viên và người dân”. Theo đó, trong Văn kiện Đại hội VI (1986), Đảng ta đã bước đầu làm rõ chủ thể và cách thức phối hợp giữa các chủ thể của hoạt động đối ngoại bao gồm Đảng, Nhà nước và nhân dân Việt Nam.
Trên cơ sở đường lối đổi mới từ năm 1986, lĩnh vực đối ngoại Nhân dân cũng có những điều chỉnh phù hợp với mục tiêu đối ngoại trong tình hình mới. Trước hết là thay đổi cơ quan quản lý công tác đối ngoại nhân dân và sau đó là đổi tên tổ chức thực hiện nhiệm vụ đối ngoại nhân dân từ “Uỷ ban Việt Nam đoàn kết và hữu nghị với nhân dân các nước” thành “Liên hiệp các tổ chức hòa bình, đoàn kết, hữu nghị Việt Nam”. Cũng từ năm 1989, tổ chức đã được giao thêm nhiệm vụ vận động và điều phối viện trợ nhân dân, quản lý các Tổ chức phi chính phủ nước ngoài. Đây là quyết định đúng đắn và kịp thời của Đảng trong lĩnh vực đối ngoại Nhân dân, giúp tăng cường vận động bạn bè quốc tế ủng hộ Việt Nam, từ đó tạo nền tảng cho việc phá thế bao vây, cấm vận sau này.
Dấu mốc quan trọng trong đổi mới tư duy đối ngoại nhân dân được thể hiện trong Nghị quyết Hội nghị lần thứ ba Ban Chấp hành Trung ương VII năm 1992: “Mở rộng và đổi mới ngoại giao nhân dân nhằm giữ vững hòa bình, mở rộng quan hệ hữu nghị và hợp tác, tạo điều kiện quốc tế thuận lợi cho công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc; đồng thời góp phần vào cuộc đấu tranh chung của nhân dân thế giới vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội, theo tinh thần Việt Nam muốn là bạn của tất cả các nước trong cộng đồng thế giới, phấn đấu vì hòa bình, độc lập và phát triển”.
Với tinh thần đó, ngày 10/01/1992, Ban Bí thư Trung ương Đảng ra Quyết định số 22-QĐ/TW tách Liên hiệp các tổ chức hòa bình, đoàn kết, hữu nghị Việt Nam khỏi Ban Đối ngoại Trung ương thành một tổ chức chính trị - xã hội độc lập, đánh dấu một thời kỳ phát triển mới của hoạt động đối ngoại nhân dân trên các lĩnh vực hoà bình, đoàn kết, hữu nghị và quan hệ với các tổ chức phi chính phủ nước ngoài. Đó là tiền thân của Liên hiệp các tổ chức hữu nghị Việt Nam bây giờ - cơ quan nòng cốt trong triển khai công tác đối ngoại nhân dân. Đến Đại hội VIII năm 1996, lần đầu tiên trong Văn kiện Đại hội Đảng, nhiệm vụ đối ngoại nhân dân được xác định rõ ràng, tư duy làm đối ngoại nhân dân được định hình rõ nét, giúp mở ra một kỷ nguyên mới cho công tác đối ngoại nhân dân trong giai đoạn kiến thiết, xây dựng Tổ quốc: “Mở rộng quan hệ đối ngoại nhân dân, quan hệ với các tổ chức phi chính phủ, tranh thủ sự đồng tình và ủng hộ rộng rãi của nhân dân các nước, góp phần thúc đẩy xu thế hoà bình, hợp tác, phát triển”.
Thực tiễn cho thấy, đối ngoại nhân dân đã có những hoạt động thiết thực, góp phần khôi phục đất nước sau chiến tranh và thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội thời kỳ đầu Đổi mới.
Trong giai đoạn 1975-1992, các tổ chức được thành lập và trưởng thành qua các thời kỳ kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ và một số tổ chức mới ra đời sau năm 1975 chính là lực lượng trực tiếp triển khai các hoạt động đối ngoại nhân dân của Việt Nam. Có thể kể đến một số tổ chức nổi bật như: Uỷ ban Việt Nam đoàn kết, hữu nghị với nhân dân các nước; Uỷ ban Hoà bình Việt Nam; Hội Quốc tế ngữ bảo vệ hoà bình của Việt Nam; Uỷ ban Đoàn kết nhân dân Á-Phi; Hội Hữu nghị Việt Nam - Liên Xô; Hội Hữu nghị Việt - Trung; Hội Hữu nghị Việt - Pháp; Uỷ ban Đoàn kết với nhân dân Mỹ;… Sau thời kỳ kháng chiến, đối tác của các tổ chức này bước đầu được đa dạng hoá, nhưng chủ yếu vẫn thuộc nhóm các nước xã hội chủ nghĩa và các nước đang phát triển.
Song, với nền tảng quan hệ đó, đối ngoại Nhân dân Việt Nam đã tận dụng tốt các cơ hội để tranh thủ thúc đẩy quan hệ hữu nghị với các nước và bạn bè trên thế giới. Đối với Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu, ta có quan hệ rất chặt chẽ. Các nước này luôn tận tình giúp đỡ các hoạt động hoà bình, đoàn kết, hữu nghị của Việt Nam và hằng năm đều tổ chức các hội nghị tư vấn các tổ chức hòa bình, đoàn kết, hữu nghị và Quốc tế ngữ các nước xã hội chủ nghĩa để thống nhất chủ trương hoạt động và trao đổi kinh nghiệm. Đối với các nước láng giềng như Lào, Trung Quốc,..., quan hệ về mặt nhà nước cũng như về mặt nhân dân ngày càng gắn bó. Đặc biệt sau khi bình thường hóa quan hệ với Trung Quốc năm 1991, các hoạt động đi thăm mộ các liệt sĩ Trung Quốc hy sinh ở Việt Nam trong thời kỳ chống đế quốc Mỹ luôn được duy trì hằng năm. Với Tây Âu, quan hệ giữa Việt Nam với các tổ chức ở Cộng hoà Liên bang Đức, Anh, Pháp, Thuỵ Điển, Italia vẫn tiếp tục được duy trì và phát triển, nổi bật trên các lĩnh vực hỗ trợ y tế, xóa đói giảm nghèo,... Với Mỹ và các nước phương Tây khác, ta vẫn duy trì tốt quan hệ với các tổ chức và phong trào hòa bình, đoàn kết, hữu nghị, đặc biệt trong công tác tìm kiếm hài cốt binh lính Mỹ và triển khai các dự án viện trợ.
Đặc biệt, khi Việt Nam và Mỹ chưa thiết lập quan hệ ngoại giao chính thức thì quan hệ giữa Hội Việt - Mỹ với các cựu chiến binh Mỹ chính là cầu nối để trao đổi, tiếp xúc giữa nhân dân hai nước. Có thể nói, kênh đối ngoại nhân dân này có vai trò rất quan trọng trong việc mở đường, tạo nền tảng thuận lợi, góp phần tiến tới bình thường hóa quan hệ Việt - Mỹ. Xuất phát từ mong muốn hiểu biết nhiều hơn về Việt Nam và hàn gắn vết thương chiến tranh, các cựu chiến binh Mỹ đã trở thành những người tiên phong trong các hoạt động đối ngoại nhân dân Mỹ - Việt Nam. Có thể kể đến hoạt động của Trung tâm William Joiner (WJC), Trung tâm nghiên cứu hậu quả chiến tranh và xã hội của Đại học Massachusetts. Họ đã có những việc làm thiết thực như sưu tầm những tài liệu của Việt Nam mà phía Mỹ đã thu giữ được trong chiến tranh, trong số này có rất nhiều những bài thơ, bài hát, những bức thư chứa đầy tình cảm sâu sắc của các chiến sĩ Việt Nam. Vào năm 1986, hơn 20 người của WJC đã sang thăm Việt Nam và nhận ra tình trạng cực kỳ khó khăn của Việt Nam sau chiến tranh. Do vậy, người dẫn đầu phái đoàn đồng thời là giám đốc lúc đó là Kevin Bowen đã nghĩ ra cách để hàn gắn vết thương chiến tranh Việt - Mỹ bằng cách tích cực tổ chức các cuộc giao lưu với các văn nghệ sĩ Việt Nam, chủ yếu qua con đường văn chương. Đây cũng là cơ hội để đẩy mạnh công tác tuyên truyền về đường lối, chính sách cũng như văn hóa, đất nước và con người Việt Nam với nhân dân Mỹ thông qua kênh đối ngoại nhân dân.
Ngày 09/4/1991, Chính phủ Mỹ đề xuất với Chính phủ Việt Nam “Lộ trình 4 bước” bình thường hóa quan hệ. Đến năm 1992, Mỹ tuyên bố nới lỏng cấm vận đối với Việt Nam. Cũng trong năm này, Hội Việt – Mỹ đã xác định cần phải tăng cường hơn nữa các hoạt động giao lưu nhân dân, trao đổi các đoàn của tầng lớp nhân dân, nghiên cứu và khuyến nghị giải pháp, chính sách về quan hệ Việt - Mỹ. Đồng thời, phía Mỹ chính thức thực hiện Chương trình học bổng Fulbright dành cho sinh viên Việt Nam với mục tiêu là “tăng cường sự hiểu biết lẫn nhau giữa nhân dân Mỹ và nhân dân Việt Nam”. Theo đó, 18 sinh viên Việt Nam đầu tiên đã được cấp học bổng của Chương trình để sang học ở các trường đại học của Mỹ. Đây cũng là chương trình trao đổi giáo dục đầu tiên của chính phủ Mỹ với Việt Nam khi hai nước chưa bình thường hóa quan hệ ngoại giao. Có thể thấy, đối ngoại nhân dân đóng góp quan trọng trong việc bình thường hóa quan hệ với Mỹ, phá thế bao vây, cấm vận, là tiền đề để thực hiện công cuộc đổi mới trong giai đoạn đất nước đang hết sức khó khăn.
Từ năm 1995, sau khi Việt Nam gia nhập ASEAN và bình thường hóa quan hệ với Mỹ, quan hệ và hoạt động đối ngoại nhân dân đất nước ta đã bắt đầu bước vào một thời kỳ phát triển mới. Ngay trong năm 1995, lần đầu tiên sau nhiều năm tạm dừng, Trung ương Đoàn đã tổ chức lại được các hoạt động giao lưu thanh niên quy mô lớn như cử đoàn 30 người đi dự Chương trình giao lưu thanh niên “Kirap Ramaja” do Chính phủ Indonesia bảo trợ nhân dịp kỷ niệm 40 năm Quốc khánh Indonesia; hoàn tất thỏa thuận với Nhật Bản về việc cử đoàn 100 thanh niên thăm Nhật Bản hằng năm trong thời gian 1 tháng theo chương trình “Lãnh đạo trẻ cho thế kỷ XXI” do Chính phủ Nhật Bản tài trợ thông qua Tổ chức Hợp tác quốc tế Nhật Bản (JICA). Bên cạnh đó, Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam đã tăng được gần gấp 3 lần quy mô các đoàn ra, nâng từ 36 đoàn ra với 134 lượt người (năm 1996) đến 108 đoàn ra với 383 lượt người (năm 2001).
Tương tự như vậy, các đoàn thể nhân dân của ta đã vừa khôi phục, củng cố được quan hệ với các tổ chức nhân dân các nước láng giềng, bạn bè truyền thống, vừa nhanh chóng mở rộng được quan hệ đối tác theo hướng đa dạng hoá, đa phương hoá, mở rộng các hoạt động đối ngoại cả về địa bàn lẫn nội dung, hình thức, theo hướng ngày càng phong phú, đa dạng hơn.
Bên cạnh công tác hòa bình, đoàn kết, hữu nghị với nhân dân các nước, đối ngoại nhân dân Việt Nam còn đảm trách một nhiệm vụ rất quan trọng là “làm đầu mối vận động, điều phối viện trợ của các tổ chức hòa bình, đoàn kết, hữu nghị, các tổ chức nhân đạo, từ thiện, các tổ chức phi chính phủ và cá nhân ở các nước trên thế giới nhằm góp phần vào công cuộc phát triển kinh tế - xã hội của đất nước”. Trong giai đoạn này, công tác về các tổ chức phi chính phủ đã đạt được một số thành tựu nhất định. Số tổ chức phi chính phủ nước ngoài hoạt động ở nước ta từ 70 tổ chức năm 1989 tăng lên 450 tổ chức vào cuối năm 1996. Tổng trị giá tiền viện trợ phi chính phủ tăng từ 13 triệu USD năm 1991 lên đến 80 triệu USD năm 1997. Giai đoạn 1993-1997, tổng giá trị viện trợ là 330 triệu USD. Lĩnh vực hoạt động của các tổ chức này rất rộng trong các ngành như y tế, giáo dục, nông nghiệp, cứu trợ nhân đạo,... và được triển khai ở hàng chục tỉnh thành của Việt Nam. Đây là những nguồn lực có vai trò quan trọng góp phần hỗ trợ Việt Nam xây dựng, kiến thiết đất nước, khắc phục hậu quả chiến tranh, xóa đói, giảm nghèo và thực thi các chiến lược phát triển kinh tế - xã hội trong giai đoạn này.
Thời kỳ đầu Đổi mới, đối ngoại nhân dân đã vận dụng khéo léo tư tưởng Chủ tịch Hồ Chí Minh về: “Đường lối tấn công vào lòng người, chinh phục bằng đạo lý, chuyển hóa bằng nhân tình, thuyết phục lòng người để nhân lên sức mạnh của chính nghĩa”, góp phần tạo nên mối quan hệ hoà hảo, hữu nghị giữa Việt Nam và nhân dân các nước ngay cả đối với nước mà chúng ta chưa bình thường hóa quan hệ ngoại giao chính thức. Đó cũng là thế mạnh và bản sắc rất riêng của đối ngoại nhân dân, luôn tìm đường để kết hợp sức mạnh của khối đại đoàn kết dân tộc với sự ủng hộ của quốc tế tạo nên một sức mạnh tổng hợp trong công cuộc xây dựng và phát triển đất nước về sau.
Long Phạm - Mỹ Lệ